Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Jakob Rudnik”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: , → ,, Quốc Tế → Quốc tế (2), . <ref → .<ref using AWB
Hoàn thiện bài viết
Dòng 1: Dòng 1:
{{đang sửa đổi}}
{{Infobox person
{{Infobox person
| name = Jakob Rudnik
| name = Jakob Rudnik
Dòng 8: Dòng 7:
| birth_date = {{Birth date|1894|3|24}}
| birth_date = {{Birth date|1894|3|24}}
| birth_place = Borshchahivka, [[Kiev]], [[Ukraina]]
| birth_place = Borshchahivka, [[Kiev]], [[Ukraina]]
| death_date = {{Death date and age|1963|3|13|1894|3|24}}
| death_date = {{Death date and age|1963|3|13|1894|3|24}}<ref name="Litten492">{{harvnb|Litten|1994|p=492}}</ref>
| death_place =
| death_place =
| nationality =
| nationality =
| other_names = Yakov Rudnik<br />Hilaire Noulens<br />Paul Ruegg
| other_names = Yakov Rudnik<br />Hilaire Noulens<br />Paul Ruegg
| occupation = [[Điệp viên]] - Thành viên [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]]<br />Thư ký Chi nhánh Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản
| occupation = [[Điệp viên]] - Thành viên [[Đệ Tam Quốc Tế|Quốc tế Cộng sản]]<br />Thư ký Chi nhánh Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản
| organization = [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]]
| organization = [[Đệ Tam Quốc Tế|Quốc tế Cộng sản]]
| years_active =
| years_active =
| known_for =
| known_for =
}}
}}


'''Jakob Rudnik''' (24 tháng 3 năm 1894 &#x2013; 13 tháng 3 năm 1963<ref name="Litten">{{harvnb|Litten|1994|p=}}</ref>) là một điệp viên hoạt động trong Bộ Liên lạc Quốc tế (tiếng Nga: ''Otdel Mezhdunarodny Sviasy'' (OMS), tiếng Anh: ''International Liasion Department'') hoặc còn gọi Bộ Phương Đông, là tổ chức điệp vụ bí mật của [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]]. Ông nổi tiếng qua "Vụ án Noulens" khi hoạt động dưới mật danh '''Hilaire Noulens''' và bị bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) từ tháng 6 năm 1931 đến tháng 7 năm 1939.
'''Jakob Rudnik''' (24 tháng 3 năm 1894 &#x2013; 13 tháng 3 năm 1963) (có tài liệu viết là '''Yakov Rudnik'''<ref name="Litten492" /> theo tài liệu tiếng Nga) là một điệp viên hoạt động trong Bộ Liên lạc Quốc tế (tiếng Nga: ''Otdel Mezhdunarodny Sviasy'' (OMS), tiếng Anh: ''International Liasion Department'') là tổ chức điệp vụ bí mật của [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]].


Ông nổi tiếng qua "Vụ án Noulens" khi hoạt động dưới mật danh '''Hilaire Noulens''' và bị bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) từ tháng 6 năm 1931 đến tháng 7 năm 1939. Ông từng tham chiến tại Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, ông làm giảng viên tại Viện Quan hệ Quốc tế Moskva (''Moscow Institute of International Relations'') và huấn luyện nhiều nhà ngoại giao và điệp viên Liên Xô.<ref>{{harvnb|Volodarsky|2014|p=[https://books.google.ca/books?id=36GbBQAAQBAJ&pg=PA512 512]}}</ref>
== Hoạt động ==

Rudnik hoạt động cho lực lượng tình báo của Hồng Quân Liên Xô tại Pháp.<ref>{{harvnb|Volodarsky|2014|p=[https://books.google.ca/books?id=36GbBQAAQBAJ&pg=PA20 20]}}</ref> Tháng 12 năm 1921, [[Cục Số Hai]] (''Deuxième Bureau''), một cơ quan tình báo của quân đội Pháp, nhận được báo cáo từ Thụy Sĩ thông báo việc điệp viên Liên Xô đang tìm cách lấy cắp thông tin về vũ khí quân đội Pháp. Tình báo Pháp đã theo dõi và bắt giam Rudnik. Ông bị giam giữ trong 2 năm sau đó bị trục xuất khỏi Pháp.<ref>{{harvnb|Volodarsky|2014|p=[https://books.google.ca/books?id=36GbBQAAQBAJ&pg=PA17 17]}}</ref>
== Thân thế ==
'''Jakob Rudnik''', tên đầy đủ '''Yakob Matveevich Rudnik''', sinh ngày 24 tháng 3 năm 1894 (theo [[lịch Gregorius]] là ngày 5 tháng 4 năm 1894) tại [[Kiev]], [[Ukraina]].<ref name="Litten511" /> Do hoàn cảnh gia đình quá nghèo, ông phải làm thêm kiếm sống từ năm 13 tuổi. Khi đang theo học tại [[Viện Kỹ thuật Petrograd]] thì phải bỏ dở vì toàn bộ sinh viên bị tổng động viên năm 1916. Năm 1917, ông tham gia Cách mạng Pháp và tham gia lực lượng Bolshevik trong cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Đầu năm 1918, ông trở thành thành viên của [[Ủy ban Đặc biệt toàn Nga]] ('''Cheka''') ở [[Sankt-Peterburg|Petrograd]] để làm việc trong quân đội. Cuối năm 1920, ông được cử đến [[Moskva]] để gia nhập tổ chức Quốc tế Cộng sản. Sau đó, ông được gửi đến hoạt động bí mật tại Pháp.<ref name="Litten511">{{harvnb|Litten|1994|p=511-512}}</ref>

Rudnik hoạt động cho lực lượng tình báo của Hồng Quân Liên Xô tại Pháp.<ref>{{harvnb|Volodarsky|2014|p=[https://books.google.ca/books?id=36GbBQAAQBAJ&pg=PA20 20]}}</ref> Tháng 12 năm 1921, [[Cục Số Hai]] (''Deuxième Bureau''), một cơ quan tình báo của quân đội Pháp, nhận được báo cáo từ Thụy Sĩ thông báo việc điệp viên Liên Xô đang tìm cách lấy cắp thông tin về vũ khí quân đội Pháp. Tình báo Pháp đã theo dõi và bắt giam Rudnik. Ông bị giam giữ tại nhà tù Poissy (gần Paris, Pháp) từ năm 1922 đến 1924 trước bị trục xuất khỏi Pháp và trở về Liên Xô.<ref>{{harvnb|Volodarsky|2014|p=[https://books.google.ca/books?id=36GbBQAAQBAJ&pg=PA17 17]}}</ref> Từ tháng 5 năm 1925 đến tháng 11 năm 1927, ông đến Vienna (thủ đô nước Áo) và làm chủ bút cho một tờ báo khi người tiền nhiệm bị triệu hồi về Liên Xô.<ref name="Litten511" />


Sau đó, ông được Quốc tế Cộng sản cử sang Châu Á, nhằm phát triển mạng lưới hoạt động tại khu vực này. Ông hoạt động chủ yếu tại Trung Quốc và đóng vai trò quan trọng khi lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS), cánh tay tình báo, nhu vận, thông tin liên lạc của Quốc tế Cộng sản tại vùng Viễn Đông châu Á.<ref>{{harvnb|Baxter|2013|p=213}}</ref>
Sau đó, ông được Quốc tế Cộng sản cử sang Châu Á, nhằm phát triển mạng lưới hoạt động tại khu vực này. Ông hoạt động chủ yếu tại Trung Quốc và đóng vai trò quan trọng khi lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS), cánh tay tình báo, nhu vận, thông tin liên lạc của Quốc tế Cộng sản tại vùng Viễn Đông châu Á.<ref>{{harvnb|Baxter|2013|p=213}}</ref>


== Vụ án Noulens ==
Cơ quan Tình báo Mật vụ của Anh (''Secret Intelligence Service'' - SIS) mở rộng hoạt động tại Châu Á nhằm theo dõi và triệt phá mạng lưới của Quốc tế Cộng sản. Cơ quan tình báo này đã bắt được Serge Lefranc (còn có tên khác: Joseph Ducroux), một điệp viên của Quốc tế Cộng sản, đang hoạt động tại Singapore vào ngày 1 tháng 6 năm 1931.<ref>{{harvnb|Duncanson|1974|pp=85-88}}</ref> Từ những thông tin thu giữ được từ Lefranc, tình báo Anh tại Trung Quốc phát hiện ra địa chỉ những thành viên Quốc tế Cộng sản thường liên lạc với Lefrance, trong đó có Rudnik tại Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc (lúc đó hoạt động dưới tên [[Vụ án Tống Văn Sơ|Tống Văn Sơ]]) tại Hồng Kông.


Trong thời kỳ hậu Thế chiến thứ Nhất, Cơ quan Tình báo Mật vụ của Anh (''Secret Intelligence Service'' - SIS) mở rộng hoạt động tại Châu Á nhằm theo dõi và triệt phá mạng lưới của Quốc tế Cộng sản. Cơ quan tình báo này đã bắt được Serge Lefranc (còn có tên khác: Joseph Ducroux), một điệp viên của Quốc tế Cộng sản, đang hoạt động tại Singapore vào ngày 1 tháng 6 năm 1931.<ref>{{harvnb|Duncanson|1974|pp=85-88}}</ref> Từ những thông tin thu giữ được từ Lefranc, tình báo Anh tại Trung Quốc phát hiện ra địa chỉ những thành viên Quốc tế Cộng sản thường liên lạc với Lefrance, trong đó có Rudnik tại Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc (lúc đó hoạt động dưới tên [[Vụ án Tống Văn Sơ|Tống Văn Sơ]]) tại Hồng Kông.
Cảnh sát Thượng Hải lần theo địa chỉ được cung cấp bởi tình báo Anh, phát hiện một nhân vật tên Hilaire Noulens, một "giáo sư" người Pháp.<ref name=Matthews100>{{harvnb|Matthews|2019|p=100)}}</ref> Xác nhận đây chính là người lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS) của Quốc tế Cộng sản, cảnh sát Thượng Hải bắt Hilaire Noulens và "vợ" [[Tatiana Moissenko]] (có sách viết Tatyana Moiseyana<ref name=Matthews100 />) tại căn hộ số 235 phố Tứ Xuyên, Thượng Hải.<ref name=Matthews100 /> Ban đầu, Noulens và Moissenko khai rằng họ là người Bỉ với hi vọng thoát khỏi bị bắt giữ nhờ quyền ngoại lãnh thổ (''extra-territorial rights'') theo luật Định Quốc tế (''International Settlement''). Tuy nhiên, sau khi Sở ngoại giao Bỉ tại Thượng Hải bác bỏ thông tin này, hai người bị chuyển qua Tòa án Thượng Hải để xử lý tố tụng. Ngày 4 tháng 8, Rudnik thay đổi lời khai, tự nhận mình tên Xavier Alois Beuret, người Thụy Sĩ.<ref name=Matthews101>{{harvnb|Matthews|2019|p=101}}</ref>


Cảnh sát Thượng Hải lần theo địa chỉ được cung cấp bởi tình báo Anh, phát hiện một nhân vật tên Hilaire Noulens , một "giáo sư" người Pháp.<ref name=Matthews100>{{harvnb|Matthews|2019|p=100)}}</ref> Xác nhận đây chính là người lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS) của Quốc tế Cộng sản, cảnh sát Thượng Hải bắt Hilaire Noulens và vợ [[Tatiana Moissenko]]<ref name="Litten492" /> (có sách viết Tatyana Moiseyenko<ref name=Matthews100 />) tại căn hộ số 235 phố Tứ Xuyên, Thượng Hải.<ref name=Matthews100 /> Theo tác giả Owen Matthews, ban đầu, Noulens và Moissenko khai rằng họ là người Bỉ, với hi vọng thoát khỏi bị bắt giữ nhờ quyền ngoại lãnh thổ (''extra-territorial rights'') theo luật pháp Bỉ<ref name="Litten494" >{{harvnb|Litten|1994|p=494}}</ref>. Tuy nhiên, sau khi Sứ quán Bỉ tại Thượng Hải bác bỏ thông tin này, hai người bị chuyển qua Tòa án Thượng Hải để xử lý tố tụng. Ngày 4 tháng 8, theo hướng dẫn của luật sư được thuê bởi Quốc tế Cộng sản<ref name="Litten494" />, Rudnik thay đổi lời khai, tự nhận mình tên Xavier Alois Beuret, quốc tịch Thụy Sĩ. Lần này, Lãnh sự quán Thụy Sĩ cũng bác bỏ thông tin này và tìm ra người tên Xavier Beuret thật hiện đang sinh sống tại Bỉ.<ref name=Matthews101>{{harvnb|Matthews|2019|p=101)}}</ref>
[[Tập tin:Jakob Rudnik and his wife2.jpg|nhỏ|phải|Jakob Rudnik và vợ trong nhà tù Trung Quốc năm 1937]]
Nhờ vào sự vận động tuyên truyền của nhà hoạt động chính trị [[Willi Münzenberg]], vụ án thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ báo chí. Những người nổi tiếng như [[Albert Einstein]], [[H. G. Wells|HG Wells]], bà [[Tống Khánh Linh]] và [[Henri Barbusse]] đã tham gia vào Ủy ban Quốc tế Bảo vệ Noulens/Ruegg (International Noulens/Ruegg Defence Committee) mới được thành lập. Vụ việc đã được thảo luận tại cả [[Hạ viện Anh]] và [[Thượng viện Hoa Kỳ]].


Quốc tế Cộng sản liên hệ các nhân viên người Thụy Sĩ đang hoạt động bí mật và tạm sử dụng danh tính của họ cho Rudnik. Do vậy, Rudnik tiếp tục thay đổi tên của mình thành Paul Christian, một thợ vẽ bích họa. Nhưng sau đó, ông lại khai mình tên là Paul Ruegg, một thợ cơ khí người Thụy Sĩ.<ref name=Matthews101 /> Do vậy, từ tháng 9 năm 1931, báo chí, dưới sự hậu thuẫn tuyên truyền từ Quốc tế Cộng sản, đồng loạt sử dụng tên “Paul Ruegg” trong các bài báo đưa tin.<ref name="Litten494" />
Tin tức về số phận của cặp vợ chồng, tuy từng là chủ đề của sự suy đoán của báo chí, nhưng sớm bị lu mờ bởi các sự kiện xảy ra sau khi Nhật Bản xâm lược các khu vực do Trung Quốc quản lý ở thành phố Thượng Hải vào ngày 28 tháng 1 năm 1932, sau [[sự kiện Phụng Thiên]].


[[Tập tin:Jakob Rudnik and his wife2.jpg|nhỏ|phải|Jakob Rudnik và Moissenko trong nhà tù Trung Quốc năm 1937]]
Sau đó, ông tham chiến tại Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, ông làm giảng viên tại Viện Quan hệ Quốc tế Moscow (''Moscow Institute of International Relations'') và huấn luyện nhiều nhà ngoại giao và điệp viên Liên Xô.<ref>{{harvnb|Volodarsky|2014|p=[https://books.google.ca/books?id=36GbBQAAQBAJ&pg=PA512 512]}}</ref>
Trong thời gian đó, tổ chức Quốc tế Cộng sản đồng thời mở chiến dịch tuyên truyền rộng lớn trên báo giới về "Vụ án Noulens" nhằm thu hút dư luận. Nhà hoạt động chính trị người Đức, [[Willi Münzenberg]], vận động các cảm tình viên Cộng sản lập nên "Ủy ban Quốc tế Bảo vệ Noulens (Ruegg)" (''International Noulens (Ruegg) Defence Committee'') gây tiếng vang khắp Châu Âu. Nhờ vào tuyên truyền từ tổ chức này, những người nổi tiếng như [[Albert Einstein]], [[H. G. Wells|H.G. Wells]], bà [[Tống Khánh Linh]] (phu nhân Tôn Trung Sơn), Marxim Gorki, Theodore Dreiser, và [[Henri Barbusse]] cũng lên tiếng tham gia ủng hộ Noulens.<ref>{{harvnb|Baxter|Dockrill|Hamilton|2013|p=138}}</ref><ref name=Matthews1012>{{harvnb|Matthews|2019|pp=101-102)}}</ref> Vụ việc thậm chí được đem ra thảo luận tại cả [[Hạ viện Anh]] và [[Thượng viện Hoa Kỳ]].<ref name=Matthews1012>{{harvnb|Matthews|2019|pp=101-102)}}</ref>


Sau đó, tin tức về vụ án Noulens Moissenko, tuy từng là chủ đề quan tâm của báo chí, nhưng sớm bị lu mờ bởi các sự kiện xảy ra sau khi Nhật Bản xâm lược vùng [[Mãn Châu]] (đông bắc Trung Quốc), sau [[sự kiện Phụng Thiên]], đe dọa an ninh đến Liên Xô.<ref>{{harvnb|Matthews|2019|pp=102-103)}}</ref>
== Những khám phá sau này ==
Trong gần 60 năm, danh tính của Noulens bị gọi sai là '''Paul Ruegg'''. Do đó, trong một số ít tác phẩm liên quan đến vụ bắt giữ Rudnik vợ vào ngày 15 tháng 6 năm 1931, sai lầm này phổ biến.<ref name="Litten" />


Noulens và vợ bị tuyên án tử hình vào ngày 19 tháng 8 năm 1932 tại Tòa án thượng thẩm Nam Kinh (tỉnh Giang Tô). Sau đó, Quốc tế Cộng sản chi số tiền lớn, thông qua đại diện liên lạc tại Trung Quốc, nhằm giải cứu Noulens và Moissenko nhưng bất thành. Hai người tiếp tục bị giam giữ tại Nhà tù số 1 Giang Tô. Trong thời gian bị giam, theo lời kể của Noulens sau này, họ thường đấu tranh sự ngược đãi bằng cách tuyệt thực trong tù. Nhưng hình ảnh chụp vào năm 1934 cho thấy họ hoàn toàn không bị ngược đãi.<ref name="Litten498">{{harvnb|Litten|1994|p=498}}</ref>. Sau đó, thế giới hoàn toàn quên lãng vụ án Noulens.
Trong cuốn hồi ký ''Witness'' (1952), Whittaker Chambers gọi "Vụ Noulens" là "Vụ án Robinson-Rubens" nhằm đề cập đến Rudnik và một nhân vật tên "Richard Robinson-Rubens".<ref name="Chambers">{{harvnb|Chambers|1952|p=[https://archive.org/details/witness00cham/page/356 356]}}</ref>


Ngày 27 tháng 8 năm 1937, sau đợt không kích của quân đội Nhật, Noulens và vợ được phóng thích. Họ rời Nam Kinh đến Thượng Hải. Bà Tống Khánh Linh đã hỗ trợ tiền bạc và nơi ở cho họ trong thời gian ở Thượng Hải. Sau khi liên lạc với Quốc tế Cộng sản, cuối cùng họ được bảo lãnh và cung cấp giấy tờ để rời khỏi Trung Quốc vào 25 tháng 7 năm 1939.<ref name="Litten498" />
Cho đến năm 1994, Tiến sĩ Frederick Litten công bố bài báo trên tờ China Quarterly và lúc đó, danh tính thực sự của Noulens mới bị phơi bày.<ref name="Litten" />


== Xem thêm ==
== ẩn về danh tính ==
Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Frederick Litten, khi đến hoạt động tại Trung Quốc, Noulens và vợ sử dụng rất nhiều passport tên tuổi và quốc tịch khác nhau. Khi bị bắt, Noulens đang giữ trong người 3 hộ chiếu khác nhau: Samuel Herssens, Fernand Vandercruyssen (đều quốc tịch Bỉ), và Donat Boulanger (quốc tịch Canada). Còn vợ Noulens, Moissenko, khi đó có 2 hộ chiếu: Sophie Louise Herbet và Marie Vandercruyssen.<ref name="Litten508">{{harvnb|Litten|1994|pp=508-509}}</ref>


Khi bị bắt, cả hai người đều sử dụng hộ chiếu mang họ Vandercruyssen, quốc tịch Bỉ. Sau thời gian bị giam giữ và nhiều lần đổi tên, cuối cùng Noulens và vợ khai mình có tên là Paul Ruegg và Gertrud Ruegg (Bà Ruegg), quốc tịch Thụy Sĩ.
* Cục liên lạc quốc tế

* Phòng làm việc của Whittaker
Tuy nhiên, chính quyền Thụy Sĩ bác bỏ thông tin này. Ngoài ra, Noulens còn sử dụng nhiều tên và quốc tịch khác nhau trong suốt thời gian dài hoạt động cho Quốc tế Cộng sản. Do vậy, danh tính và quốc tịch thật của Noulens và vợ vẫn là nghi vấn đối với chính quyền và báo chí.<ref name="Litten508" />

Trong gần 60 năm, danh tính của Noulens bị gọi sai là '''Paul Ruegg''' dựa theo thông tin Rudnik khai trong thời giam giam giữ Thượng Hải. Do đó, việc gọi tên người bị bắt vào ngày 15 tháng 6 năm 1931 Paul Ruegg như trong một số tác phẩm liên quan đều không chính xác.

Cho đến năm 1994, Tiến sĩ Litten công bố bài báo trên tờ China Quarterly và lúc đó, danh tính thực sự của Noulens mới bị phơi bày.<ref name="Litten512">{{harvnb|Litten|1994|p=512}}</ref>

== Xem thêm ==
*[[Vụ án Tống Văn Sơ]]


== Chú thích ==
== Chú thích ==
{{Tham khảo}}
{{Tham khảo|2}}


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==
*{{cite book | last=Baxter | first=C. | last2=Dockrill | first2=M. | last3=Hamilton | first3=K. |year=2013 | title=Britain in Global Politics Volume 1: From Gladstone to Churchill | publisher=Palgrave Macmillan | series=Security, Conflict and Cooperation in the Contemporary World | isbn=978-1-137-36782-2 | url=https://books.google.ca/books?id=RQfRAQAAQBAJ&pg=PA138 | access-date=2020-06-16 | page=138|ref=harv}}
*{{cite journal | last=Streets-Salter | first=Heather | title=The Noulens Affair in East and Southeast Asia | journal=The Journal of American-East Asian Relations | publisher=Brill | volume=21 | issue=4 | date=2014-11-26 | issn=1058-3947 | doi=10.1163/18765610-02104006 | pages=394–414|ref=harv}}
*{{cite journal | last=Litten | first=Frederick S. | title=The Noulens Affair | journal=The China Quarterly | publisher=Cambridge University Press (CUP) | volume=138 | year=1994 | issn=0305-7410 | doi=10.1017/s0305741000035852 | pages=492–512|ref=harv}}
*{{Cite book| url=https://archive.org/details/witness00cham| title=Witness| last=Chambers| first=Whittaker| publisher=Random House| year=1952| location=New York| pages=399–400, 405, 456|lccn=52005149}}
*{{cite book | last=Volodarsky | first=B. | title=Stalin's Agent: The Life and Death of Alexander Orlov | publisher=OUP Oxford | year=2014 | isbn=978-0-19-104552-3 | url=https://books.google.ca/books?id=tM6SBQAAQBAJ&dq=Stalin%27s+Agent:+The+Life+and+Death+of+Alexander+Orlov&source=gbs_navlinks_s | access-date=2020-06-16 | page=17,20,512| ref=harv}}
*{{cite book | last=Baxter | first=Christopher | title=Britain in Global Politics Volume 1 | chapter=The Secret Intelligence Service and China: The Case of Hilaire Noulens, 1923–1932 | publisher=Palgrave Macmillan UK | publication-place=London | year=2013 | isbn=978-1-349-34774-2 | doi=10.1057/9781137367822_6 | pages=132–152|ref=harv}}
*{{Chú thích tạp chí|last=Duncanson|first=Dennis J.|date=1974|title=Ho-Chi-Minh In Hong Kong, 1931–32|journal=The China Quarterly|volume=57|issue=|pages=84-100|via=JSTOR|url=https://www.jstor.org/stable/652230|ref=harv}}
*{{cite book | last=Matthews | first=O. | title=An Impeccable Spy: Richard Sorge, Stalin’s Master Agent | publisher=Bloomsbury Publishing | year=2019 | isbn=978-1-4088-5780-9 | url=https://books.google.ca/books?id=dHN_DwAAQBAJ&pg=PT102&dq=Albert+Einstein,+H.G.+Wells,+Madame+Sun+Yat-sen,+Henri+Barbusse+International+Noulens/Ruegg+Defence+Committee&hl=en&sa=X&ved=0ahUKEwjP_rWEmoXqAhU_FjQIHbM4DR0Q6AEIKDAA#v=onepage&q=Albert%20Einstein%2C%20H.G.%20Wells%2C%20Madame%20Sun%20Yat-sen%2C%20Henri%20Barbusse%20International%20Noulens%2FRuegg%20Defence%20Committee&f=false | language=| access-date=2020-06-16 | page=}}


*{{cite book | last=Baxter | first=Christopher | year=2013 | title=Britain in Global Politics Volume 1 | chapter=The Secret Intelligence Service and China: The Case of Hilaire Noulens, 1923–1932 | publisher=Palgrave Macmillan UK | publication-place=London | isbn=978-1-349-34774-2 | doi=10.1057/9781137367822_6 | pages=132–152|ref=harv}}
== Liên kết ngoài ==


*{{Cite book| last=Chambers| first=Whittaker|year=1952| url=https://archive.org/details/witness00cham| title=Witness| publisher=Random House| location=New York| pages=399–400, 405, 456|lccn=52005149|ref=harv}}
* [http://discovery.nationalarchives.gov.uk/details/record?catid=8499499&catln=6 Văn khố Lưu trữ Quốc gia Anh]: Điều tra về hoạt động của Rudnik/Noulens tại Vùng Viễn Đông.

*{{Chú thích tạp chí|last=Duncanson|first=Dennis J.| date=1974| title=Ho-Chi-Minh In Hong Kong, 1931–32|journal=The China Quarterly|volume=57|issue=|pages=84-100|via=JSTOR|url=https://www.jstor.org/stable/652230|ref=harv}}

*{{cite journal | last=Litten | first=Frederick S. | year=1994 | title=The Noulens Affair | journal=The China Quarterly | publisher=Cambridge University Press (CUP) | volume=138 | issn=0305-7410 | doi=10.1017/s0305741000035852 | pages=492–512|ref=harv}}

*{{cite book | last=Matthews | first=O. | year=2019 | title=An Impeccable Spy: Richard Sorge, Stalin’s Master Agent | publisher=Bloomsbury Publishing | isbn=978-1-4088-5780-9 | url=https://books.google.ca/books?id=dHN_DwAAQBAJ&pg=PT102&dq=Albert+Einstein,+H.G.+Wells,+Madame+Sun+Yat-sen,+Henri+Barbusse+International+Noulens/Ruegg+Defence+Committee&hl=en&sa=X&ved=0ahUKEwjP_rWEmoXqAhU_FjQIHbM4DR0Q6AEIKDAA#v=onepage&q=Albert%20Einstein%2C%20H.G.%20Wells%2C%20Madame%20Sun%20Yat-sen%2C%20Henri%20Barbusse%20International%20Noulens%2FRuegg%20Defence%20Committee&f=false | language=| access-date=2020-06-16 | page=|ref=harv}}

*{{cite journal | last=Streets-Salter | first=Heather | date=2014 | title=The Noulens Affair in East and Southeast Asia | journal=The Journal of American-East Asian Relations | publisher=Brill | volume=21 | issue=4 | issn=1058-3947 | doi=10.1163/18765610-02104006 | pages=394–414|ref=harv}}

*{{cite book | last=Volodarsky| first=B. | year=2014 | title=Stalin's Agent: The Life and Death of Alexander Orlov | publisher=OUP Oxford | isbn=978-0-19-104552-3 | url=https://books.google.ca/books?id=tM6SBQAAQBAJ&dq=Stalin%27s+Agent:+The+Life+and+Death+of+Alexander+Orlov&source=gbs_navlinks_s | access-date=2020-06-16 | page=|ref=harv}}

== Liên kết ngoài ==


* [http://discovery.nationalarchives.gov.uk/details/record?catid=8499499&catln=6 Văn khố Lưu trữ Quốc gia Anh]: Điều tra về hoạt động của Rudnik/Noulens tại Vùng Viễn Đông.
[[Thể loại:Người Do Thái Ukraina]]
[[Thể loại:Người Do Thái Ukraina]]
[[Thể loại:Mất 1963]]
[[Thể loại:Mất 1963]]

Phiên bản lúc 19:42, ngày 16 tháng 6 năm 2020

Jakob Rudnik
Jakob Rudnik trong nhà tù Trung Quốc năm 1937
Sinh(1894-03-24)24 tháng 3, 1894
Borshchahivka, Kiev, Ukraina
Mất13 tháng 3, 1963(1963-03-13) (68 tuổi)[1]
Tên khácYakov Rudnik
Hilaire Noulens
Paul Ruegg
Nghề nghiệpĐiệp viên - Thành viên Quốc tế Cộng sản
Thư ký Chi nhánh Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản
Tổ chứcQuốc tế Cộng sản

Jakob Rudnik (24 tháng 3 năm 1894 – 13 tháng 3 năm 1963) (có tài liệu viết là Yakov Rudnik[1] theo tài liệu tiếng Nga) là một điệp viên hoạt động trong Bộ Liên lạc Quốc tế (tiếng Nga: Otdel Mezhdunarodny Sviasy (OMS), tiếng Anh: International Liasion Department) là tổ chức điệp vụ bí mật của Quốc tế Cộng sản.

Ông nổi tiếng qua "Vụ án Noulens" khi hoạt động dưới mật danh Hilaire Noulens và bị bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) từ tháng 6 năm 1931 đến tháng 7 năm 1939. Ông từng tham chiến tại Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, ông làm giảng viên tại Viện Quan hệ Quốc tế Moskva (Moscow Institute of International Relations) và huấn luyện nhiều nhà ngoại giao và điệp viên Liên Xô.[2]

Thân thế

Jakob Rudnik, tên đầy đủ Yakob Matveevich Rudnik, sinh ngày 24 tháng 3 năm 1894 (theo lịch Gregorius là ngày 5 tháng 4 năm 1894) tại Kiev, Ukraina.[3] Do hoàn cảnh gia đình quá nghèo, ông phải làm thêm kiếm sống từ năm 13 tuổi. Khi đang theo học tại Viện Kỹ thuật Petrograd thì phải bỏ dở vì toàn bộ sinh viên bị tổng động viên năm 1916. Năm 1917, ông tham gia Cách mạng Pháp và tham gia lực lượng Bolshevik trong cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Đầu năm 1918, ông trở thành thành viên của Ủy ban Đặc biệt toàn Nga (Cheka) ở Petrograd để làm việc trong quân đội. Cuối năm 1920, ông được cử đến Moskva để gia nhập tổ chức Quốc tế Cộng sản. Sau đó, ông được gửi đến hoạt động bí mật tại Pháp.[3]

Rudnik hoạt động cho lực lượng tình báo của Hồng Quân Liên Xô tại Pháp.[4] Tháng 12 năm 1921, Cục Số Hai (Deuxième Bureau), một cơ quan tình báo của quân đội Pháp, nhận được báo cáo từ Thụy Sĩ thông báo việc điệp viên Liên Xô đang tìm cách lấy cắp thông tin về vũ khí quân đội Pháp. Tình báo Pháp đã theo dõi và bắt giam Rudnik. Ông bị giam giữ tại nhà tù Poissy (gần Paris, Pháp) từ năm 1922 đến 1924 trước bị trục xuất khỏi Pháp và trở về Liên Xô.[5] Từ tháng 5 năm 1925 đến tháng 11 năm 1927, ông đến Vienna (thủ đô nước Áo) và làm chủ bút cho một tờ báo khi người tiền nhiệm bị triệu hồi về Liên Xô.[3]

Sau đó, ông được Quốc tế Cộng sản cử sang Châu Á, nhằm phát triển mạng lưới hoạt động tại khu vực này. Ông hoạt động chủ yếu tại Trung Quốc và đóng vai trò quan trọng khi lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS), cánh tay tình báo, nhu vận, thông tin liên lạc của Quốc tế Cộng sản tại vùng Viễn Đông châu Á.[6]

Vụ án Noulens

Trong thời kỳ hậu Thế chiến thứ Nhất, Cơ quan Tình báo Mật vụ của Anh (Secret Intelligence Service - SIS) mở rộng hoạt động tại Châu Á nhằm theo dõi và triệt phá mạng lưới của Quốc tế Cộng sản. Cơ quan tình báo này đã bắt được Serge Lefranc (còn có tên khác: Joseph Ducroux), một điệp viên của Quốc tế Cộng sản, đang hoạt động tại Singapore vào ngày 1 tháng 6 năm 1931.[7] Từ những thông tin thu giữ được từ Lefranc, tình báo Anh tại Trung Quốc phát hiện ra địa chỉ những thành viên Quốc tế Cộng sản thường liên lạc với Lefrance, trong đó có Rudnik tại Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc (lúc đó hoạt động dưới tên Tống Văn Sơ) tại Hồng Kông.

Cảnh sát Thượng Hải lần theo địa chỉ được cung cấp bởi tình báo Anh, phát hiện một nhân vật tên Hilaire Noulens , một "giáo sư" người Pháp.[8] Xác nhận đây chính là người lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS) của Quốc tế Cộng sản, cảnh sát Thượng Hải bắt Hilaire Noulens và vợ Tatiana Moissenko[1] (có sách viết Tatyana Moiseyenko[8]) tại căn hộ số 235 phố Tứ Xuyên, Thượng Hải.[8] Theo tác giả Owen Matthews, ban đầu, Noulens và Moissenko khai rằng họ là người Bỉ, với hi vọng thoát khỏi bị bắt giữ nhờ quyền ngoại lãnh thổ (extra-territorial rights) theo luật pháp Bỉ[9]. Tuy nhiên, sau khi Sứ quán Bỉ tại Thượng Hải bác bỏ thông tin này, hai người bị chuyển qua Tòa án Thượng Hải để xử lý tố tụng. Ngày 4 tháng 8, theo hướng dẫn của luật sư được thuê bởi Quốc tế Cộng sản[9], Rudnik thay đổi lời khai, tự nhận mình tên Xavier Alois Beuret, quốc tịch Thụy Sĩ. Lần này, Lãnh sự quán Thụy Sĩ cũng bác bỏ thông tin này và tìm ra người tên Xavier Beuret thật hiện đang sinh sống tại Bỉ.[10]

Quốc tế Cộng sản liên hệ các nhân viên người Thụy Sĩ đang hoạt động bí mật và tạm sử dụng danh tính của họ cho Rudnik. Do vậy, Rudnik tiếp tục thay đổi tên của mình thành Paul Christian, một thợ vẽ bích họa. Nhưng sau đó, ông lại khai mình tên là Paul Ruegg, một thợ cơ khí người Thụy Sĩ.[10] Do vậy, từ tháng 9 năm 1931, báo chí, dưới sự hậu thuẫn tuyên truyền từ Quốc tế Cộng sản, đồng loạt sử dụng tên “Paul Ruegg” trong các bài báo đưa tin.[9]

Jakob Rudnik và Moissenko trong nhà tù Trung Quốc năm 1937

Trong thời gian đó, tổ chức Quốc tế Cộng sản đồng thời mở chiến dịch tuyên truyền rộng lớn trên báo giới về "Vụ án Noulens" nhằm thu hút dư luận. Nhà hoạt động chính trị người Đức, Willi Münzenberg, vận động các cảm tình viên Cộng sản lập nên "Ủy ban Quốc tế Bảo vệ Noulens (Ruegg)" (International Noulens (Ruegg) Defence Committee) gây tiếng vang khắp Châu Âu. Nhờ vào tuyên truyền từ tổ chức này, những người nổi tiếng như Albert Einstein, H.G. Wells, bà Tống Khánh Linh (phu nhân Tôn Trung Sơn), Marxim Gorki, Theodore Dreiser, và Henri Barbusse cũng lên tiếng tham gia ủng hộ Noulens.[11][12] Vụ việc thậm chí được đem ra thảo luận tại cả Hạ viện AnhThượng viện Hoa Kỳ.[12]

Sau đó, tin tức về vụ án Noulens và Moissenko, tuy từng là chủ đề quan tâm của báo chí, nhưng sớm bị lu mờ bởi các sự kiện xảy ra sau khi Nhật Bản xâm lược vùng Mãn Châu (đông bắc Trung Quốc), sau sự kiện Phụng Thiên, đe dọa an ninh đến Liên Xô.[13]

Noulens và vợ bị tuyên án tử hình vào ngày 19 tháng 8 năm 1932 tại Tòa án thượng thẩm Nam Kinh (tỉnh Giang Tô). Sau đó, Quốc tế Cộng sản chi số tiền lớn, thông qua đại diện liên lạc tại Trung Quốc, nhằm giải cứu Noulens và Moissenko nhưng bất thành. Hai người tiếp tục bị giam giữ tại Nhà tù số 1 Giang Tô. Trong thời gian bị giam, theo lời kể của Noulens sau này, họ thường đấu tranh sự ngược đãi bằng cách tuyệt thực trong tù. Nhưng hình ảnh chụp vào năm 1934 cho thấy họ hoàn toàn không bị ngược đãi.[14]. Sau đó, thế giới hoàn toàn quên lãng vụ án Noulens.

Ngày 27 tháng 8 năm 1937, sau đợt không kích của quân đội Nhật, Noulens và vợ được phóng thích. Họ rời Nam Kinh đến Thượng Hải. Bà Tống Khánh Linh đã hỗ trợ tiền bạc và nơi ở cho họ trong thời gian ở Thượng Hải. Sau khi liên lạc với Quốc tế Cộng sản, cuối cùng họ được bảo lãnh và cung cấp giấy tờ để rời khỏi Trung Quốc vào 25 tháng 7 năm 1939.[14]

Bí ẩn về danh tính

Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Frederick Litten, khi đến hoạt động tại Trung Quốc, Noulens và vợ sử dụng rất nhiều passport tên tuổi và quốc tịch khác nhau. Khi bị bắt, Noulens đang giữ trong người 3 hộ chiếu khác nhau: Samuel Herssens, Fernand Vandercruyssen (đều quốc tịch Bỉ), và Donat Boulanger (quốc tịch Canada). Còn vợ Noulens, Moissenko, khi đó có 2 hộ chiếu: Sophie Louise Herbet và Marie Vandercruyssen.[15]

Khi bị bắt, cả hai người đều sử dụng hộ chiếu mang họ Vandercruyssen, quốc tịch Bỉ. Sau thời gian bị giam giữ và nhiều lần đổi tên, cuối cùng Noulens và vợ khai mình có tên là Paul Ruegg và Gertrud Ruegg (Bà Ruegg), quốc tịch Thụy Sĩ.

Tuy nhiên, chính quyền Thụy Sĩ bác bỏ thông tin này. Ngoài ra, Noulens còn sử dụng nhiều tên và quốc tịch khác nhau trong suốt thời gian dài hoạt động cho Quốc tế Cộng sản. Do vậy, danh tính và quốc tịch thật của Noulens và vợ vẫn là nghi vấn đối với chính quyền và báo chí.[15]

Trong gần 60 năm, danh tính của Noulens bị gọi sai là Paul Ruegg dựa theo thông tin Rudnik khai trong thời giam giam giữ ở Thượng Hải. Do đó, việc gọi tên người bị bắt vào ngày 15 tháng 6 năm 1931 là Paul Ruegg như trong một số tác phẩm liên quan đều không chính xác.

Cho đến năm 1994, Tiến sĩ Litten công bố bài báo trên tờ China Quarterly và lúc đó, danh tính thực sự của Noulens mới bị phơi bày.[16]

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ a b c Litten 1994, tr. 492
  2. ^ Volodarsky 2014, tr. 512
  3. ^ a b c Litten 1994, tr. 511-512
  4. ^ Volodarsky 2014, tr. 20
  5. ^ Volodarsky 2014, tr. 17
  6. ^ Baxter 2013, tr. 213
  7. ^ Duncanson 1974, tr. 85-88
  8. ^ a b c Matthews 2019, tr. 100)
  9. ^ a b c Litten 1994, tr. 494
  10. ^ a b Matthews 2019, tr. 101)
  11. ^ Baxter, Dockrill & Hamilton 2013, tr. 138
  12. ^ a b Matthews 2019, tr. 101-102)
  13. ^ Matthews 2019, tr. 102-103)
  14. ^ a b Litten 1994, tr. 498
  15. ^ a b Litten 1994, tr. 508-509
  16. ^ Litten 1994, tr. 512

Tham khảo

  • Baxter, C.; Dockrill, M.; Hamilton, K. (2013). Britain in Global Politics Volume 1: From Gladstone to Churchill. Security, Conflict and Cooperation in the Contemporary World. Palgrave Macmillan. tr. 138. ISBN 978-1-137-36782-2. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2020.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Baxter, Christopher (2013). “The Secret Intelligence Service and China: The Case of Hilaire Noulens, 1923–1932”. Britain in Global Politics Volume 1. London: Palgrave Macmillan UK. tr. 132–152. doi:10.1057/9781137367822_6. ISBN 978-1-349-34774-2.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)

Liên kết ngoài