Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tranh cãi về vắc xin”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2: Dòng 2:
'''Tranh cãi về vắc-xin''' đã xuất hiện từ gần 80 năm trước khi các quy định pháp luật về [[Vaccine|vắc-xin]] và [[tiêm chủng]] được giới thiệu. Bất chấp sự đồng thuận [[khoa học]] cao<ref>{{Cite journal|date = ngày 1 tháng 10 năm 2017 |title=Communicating science-based messages on vaccines|url=https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5689193/|journal=Bulletin of the World Health Organization|volume=95|issue=10|pages=670–671|doi=10.2471/BLT.17.021017|issn=0042-9686|pmc=5689193|pmid=29147039}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=https://www.vox.com/2018/8/21/17588104/vaccine-opposition-anti-vaxxer|title=Why do some people oppose vaccination?|work=Vox|accessdate = ngày 26 tháng 11 năm 2018}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://theconversation.com/defending-science-how-the-art-of-rhetoric-can-help-68210|title=Defending science: How the art of rhetoric can help|last=Ceccarelli|first=Leah|work=The Conversation|accessdate = ngày 26 tháng 11 năm 2018 |language=en}}</ref> rằng vắc-xin an toàn và hiệu quả,<ref>{{chú thích web|url=https://www.vaccines.gov/basics/safety/index.html|title=Vaccines.gov|last=Services|first=U.S. Department of Health and Human|website=www.vaccines.gov|language=en-us|accessdate = ngày 5 tháng 8 năm 2018}}</ref> những lo ngại không có căn cứ về tính an toàn vẫn diễn ra, dẫn đến sự bùng phát và tử vong [[Các bệnh có thể phòng ngừa bằng Vắc-xin|các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.childrenshospital.org/centers-and-services/division-of-infectious-diseases/faq-resurgence-of-measles|title=Frequently Asked Questions (FAQ)|website=[[Boston Children's Hospital]]|accessdate=ngày 11 tháng 2 năm 2014|archiveurl=https://web.archive.org/web/20131017113035/http://www.childrenshospital.org/centers-and-services/division-of-infectious-diseases/faq-resurgence-of-measles|archivedate=ngày 17 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref>{{cite journal|last1=Phadke|first1=Varun K.|last2=Bednarczyk|first2=Robert A.|last3=Salmon|first3=Daniel A.|last4=Omer|first4=Saad B.|title=Association Between Vaccine Refusal and Vaccine-Preventable Diseases in the United States|journal=JAMA|date=ngày 15 tháng 3 năm 2016|volume=315|issue=11|pages=1149–1158|doi=10.1001/jama.2016.1353|pmid=26978210|pmc=5007135}}</ref><ref name="AgeOld">{{cite journal|vauthors=Poland GA, Jacobson RM|title=The Age-Old Struggle against the Antivaccinationists|journal=N Engl J Med|volume=364|issue=2|pages=97–99|date=ngày 13 tháng 1 năm 2011|pmid=21226573|doi=10.1056/NEJMp1010594}}</ref><ref>{{chú thích báo|author=Wallace A|title=An epidemic of fear: how panicked parents skipping shots endangers us all|work=Wired|date = ngày 19 tháng 10 năm 2009 |url=https://www.wired.com/magazine/2009/10/ff_waronscience/all/1|accessdate = ngày 21 tháng 10 năm 2009}}</ref><ref>{{cite journal|vauthors=Poland G, Jacobson R|title=Understanding those who do not understand: a brief review of the anti-vaccine movement|journal=Vaccine|volume=19|issue=17–19|pages=2440–2445|year=2001|pmid=11257375|doi=10.1016/S0264-410X(00)00469-2}}</ref><ref name="wolfesharp">{{cite journal |vauthors=Wolfe R, Sharp L |title=Anti-vaccinationists past and present |journal=BMJ |volume=325 |issue=7361 |pages=430–432 |year=2002 |pmid=12193361 |doi=10.1136/bmj.325.7361.430 |pmc=1123944 }}</ref> Một nguồn gốc khác của cuộc tranh cãi là liệu tiêm chủng bắt buộc có vi phạm [[Tự do dân sự|quyền tự do dân sự]] hay làm giảm niềm tin của công chúng vào tiêm chủng.<ref name="wolfesharp" /><ref>{{chú thích web|url=https://www.mystatesman.com/news/state--regional-govt--politics/civil-liberties-center-vaccination-debate-texas/lWzq91qhSyAKcY8MiaWnYM/|title='Civil liberties' at center of vaccination debate in Texas|last=Chang|first=Julie|website=myStatesman|publisher=[[Austin American-Statesman]]|date=ngày 12 tháng 7 năm 2017}}</ref><ref>{{chú thích web|url=https://www.nytimes.com/roomfordebate/2014/03/23/making-vaccination-mandatory-for-all-children/in-britain-vaccinate-with-persuasion-not-coercion|title=In Britain, Vaccinate With Persuasion, not Coercion|date=ngày 23 tháng 3 năm 2014|website=[[The New York Times]]|last1=Elliman|first1=David|last2=Bedford|first2=Helen}}</ref>
'''Tranh cãi về vắc-xin''' đã xuất hiện từ gần 80 năm trước khi các quy định pháp luật về [[Vaccine|vắc-xin]] và [[tiêm chủng]] được giới thiệu. Bất chấp sự đồng thuận [[khoa học]] cao<ref>{{Cite journal|date = ngày 1 tháng 10 năm 2017 |title=Communicating science-based messages on vaccines|url=https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5689193/|journal=Bulletin of the World Health Organization|volume=95|issue=10|pages=670–671|doi=10.2471/BLT.17.021017|issn=0042-9686|pmc=5689193|pmid=29147039}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=https://www.vox.com/2018/8/21/17588104/vaccine-opposition-anti-vaxxer|title=Why do some people oppose vaccination?|work=Vox|accessdate = ngày 26 tháng 11 năm 2018}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://theconversation.com/defending-science-how-the-art-of-rhetoric-can-help-68210|title=Defending science: How the art of rhetoric can help|last=Ceccarelli|first=Leah|work=The Conversation|accessdate = ngày 26 tháng 11 năm 2018 |language=en}}</ref> rằng vắc-xin an toàn và hiệu quả,<ref>{{chú thích web|url=https://www.vaccines.gov/basics/safety/index.html|title=Vaccines.gov|last=Services|first=U.S. Department of Health and Human|website=www.vaccines.gov|language=en-us|accessdate = ngày 5 tháng 8 năm 2018}}</ref> những lo ngại không có căn cứ về tính an toàn vẫn diễn ra, dẫn đến sự bùng phát và tử vong [[Các bệnh có thể phòng ngừa bằng Vắc-xin|các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.childrenshospital.org/centers-and-services/division-of-infectious-diseases/faq-resurgence-of-measles|title=Frequently Asked Questions (FAQ)|website=[[Boston Children's Hospital]]|accessdate=ngày 11 tháng 2 năm 2014|archiveurl=https://web.archive.org/web/20131017113035/http://www.childrenshospital.org/centers-and-services/division-of-infectious-diseases/faq-resurgence-of-measles|archivedate=ngày 17 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref>{{cite journal|last1=Phadke|first1=Varun K.|last2=Bednarczyk|first2=Robert A.|last3=Salmon|first3=Daniel A.|last4=Omer|first4=Saad B.|title=Association Between Vaccine Refusal and Vaccine-Preventable Diseases in the United States|journal=JAMA|date=ngày 15 tháng 3 năm 2016|volume=315|issue=11|pages=1149–1158|doi=10.1001/jama.2016.1353|pmid=26978210|pmc=5007135}}</ref><ref name="AgeOld">{{cite journal|vauthors=Poland GA, Jacobson RM|title=The Age-Old Struggle against the Antivaccinationists|journal=N Engl J Med|volume=364|issue=2|pages=97–99|date=ngày 13 tháng 1 năm 2011|pmid=21226573|doi=10.1056/NEJMp1010594}}</ref><ref>{{chú thích báo|author=Wallace A|title=An epidemic of fear: how panicked parents skipping shots endangers us all|work=Wired|date = ngày 19 tháng 10 năm 2009 |url=https://www.wired.com/magazine/2009/10/ff_waronscience/all/1|accessdate = ngày 21 tháng 10 năm 2009}}</ref><ref>{{cite journal|vauthors=Poland G, Jacobson R|title=Understanding those who do not understand: a brief review of the anti-vaccine movement|journal=Vaccine|volume=19|issue=17–19|pages=2440–2445|year=2001|pmid=11257375|doi=10.1016/S0264-410X(00)00469-2}}</ref><ref name="wolfesharp">{{cite journal |vauthors=Wolfe R, Sharp L |title=Anti-vaccinationists past and present |journal=BMJ |volume=325 |issue=7361 |pages=430–432 |year=2002 |pmid=12193361 |doi=10.1136/bmj.325.7361.430 |pmc=1123944 }}</ref> Một nguồn gốc khác của cuộc tranh cãi là liệu tiêm chủng bắt buộc có vi phạm [[Tự do dân sự|quyền tự do dân sự]] hay làm giảm niềm tin của công chúng vào tiêm chủng.<ref name="wolfesharp" /><ref>{{chú thích web|url=https://www.mystatesman.com/news/state--regional-govt--politics/civil-liberties-center-vaccination-debate-texas/lWzq91qhSyAKcY8MiaWnYM/|title='Civil liberties' at center of vaccination debate in Texas|last=Chang|first=Julie|website=myStatesman|publisher=[[Austin American-Statesman]]|date=ngày 12 tháng 7 năm 2017}}</ref><ref>{{chú thích web|url=https://www.nytimes.com/roomfordebate/2014/03/23/making-vaccination-mandatory-for-all-children/in-britain-vaccinate-with-persuasion-not-coercion|title=In Britain, Vaccinate With Persuasion, not Coercion|date=ngày 23 tháng 3 năm 2014|website=[[The New York Times]]|last1=Elliman|first1=David|last2=Bedford|first2=Helen}}</ref>


== Tính hiệu quả của vắc-xin ==
== Tính hiệu quả ==
[[Tập tin:Rubella-us-1966-93-cdc.gif|phải|nhỏ|350x350px|[[Sởi Đức|Rubella]] giảm mạnh khi tiêm chủng phổ quát được giới thiệu, theo [[Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ)|CDC]].<br />]]
[[Tập tin:Rubella-us-1966-93-cdc.gif|phải|nhỏ|350x350px|[[Sởi Đức|Rubella]] giảm mạnh khi tiêm chủng phổ quát được giới thiệu, theo [[Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ)|CDC]].<br />]]
Bằng chứng khoa học về tính hiệu quả của các chiến dịch tiêm chủng quy mô lớn được thiết lập vững chắc.<ref>{{Cite journal|last=Christenson|first=Brith|last2=Lundbergh|first2=Per|last3=Hedlund|first3=Jonas|last4=Örtqvist|first4=Åke|date = ngày 31 tháng 3 năm 2001 |title=Effects of a large-scale intervention with influenza and 23-valent pneumococcal vaccines in adults aged 65 years or older: a prospective study|url=http://thelancet.com/journals/lancet/article/PIIS0140-6736(00)04237-9/abstract|journal=The Lancet|language=Anh|volume=357|issue=9261|pages=1008–1011|doi=10.1016/S0140-6736(00)04237-9|pmid=11293594}}</ref> Các [[Vắc-xin bệnh đậu mùa|chiến dịch tiêm chủng đã thanh toán]] bệnh [[đậu mùa]] mà đã từng giết chết 1/7 [[trẻ em]] ở [[Europe|châu Âu]]<ref name="Fenner">{{chú thích sách|author=Fenner F, Henderson DA, Arita I, Ježek Z, Ladnyi, ID|url=http://whqlibdoc.who.int/smallpox/9241561106.pdf|accessdate = ngày 4 tháng 9 năm 2007 |format=PDF|title=Smallpox and its Eradication|publisher=World Health Organization|location=Geneva|year=1988|isbn=978-92-4-156110-5}}CS1 maint: Multiple names: authors list ([//en.wikipedia.org/wiki/Category:CS1_maint:_Multiple_names:_authors_list link]) {{chú thích sách|author=Fenner F, Henderson DA, Arita I, Ježek Z, Ladnyi, ID|url=http://whqlibdoc.who.int/smallpox/9241561106.pdf|accessdate = ngày 4 tháng 9 năm 2007 |format=PDF|title=Smallpox and its Eradication|publisher=World Health Organization|location=Geneva|year=1988|isbn=978-92-4-156110-5}}</ref> và gần như đã [[Vắc-xin bại liệt|loại bỏ được]] bệnh [[bại liệt]]. Một minh chứng khiêm tốn hơn, là các [[Nhiễm trùng|bệnh nhiễm trùng]] do ''[[Haemophilus influenzae]]'', nguyên nhân chính gây [[viêm màng não do vi khuẩn]] và các bệnh nghiêm trọng khác ở trẻ em, đã giảm hơn 99% ở [[Hoa Kỳ|Mỹ]] kể từ khi vắc-xin được đưa vào năm 1988.<ref>{{cite journal|author=Centers for Disease Control and Prevention (CDC)|title=Progress toward elimination of ''Haemophilus influenzae'' type b invasive disease among infants and children—United States, 1998–2000|journal=MMWR Morb Mortal Wkly Rep|volume=51|issue=11|pages=234–7|year=2002|pmid=11925021|url=https://www.cdc.gov/mmwr/preview/mmwrhtml/mm5111a4.htm}}</ref> Người ta ước tính rằng tiêm chủng đầy đủ, từ lúc còn [[sơ sinh]] đến khi [[Thanh thiếu niên|thiếu niên]], tất cả trẻ em Hoa Kỳ sinh ra trong một năm nhất định nào đó sẽ có 33.000 người được cứu sống và ngăn ngừa được 14 triệu ca nhiễm trùng.<ref>{{chú thích báo|author=Park A|url=http://www.time.com/time/health/article/0,8599,1808438-1,00.html|title=How safe are vaccines?|work=[[Time (magazine)|Time]]|date = ngày 21 tháng 5 năm 2008}}</ref>
Bằng chứng khoa học về tính hiệu quả của các chiến dịch tiêm chủng quy mô lớn được thiết lập vững chắc.<ref>{{Cite journal|last=Christenson|first=Brith|last2=Lundbergh|first2=Per|last3=Hedlund|first3=Jonas|last4=Örtqvist|first4=Åke|date = ngày 31 tháng 3 năm 2001 |title=Effects of a large-scale intervention with influenza and 23-valent pneumococcal vaccines in adults aged 65 years or older: a prospective study|url=http://thelancet.com/journals/lancet/article/PIIS0140-6736(00)04237-9/abstract|journal=The Lancet|language=Anh|volume=357|issue=9261|pages=1008–1011|doi=10.1016/S0140-6736(00)04237-9|pmid=11293594}}</ref> Các [[Vắc-xin bệnh đậu mùa|chiến dịch tiêm chủng đã thanh toán]] bệnh [[đậu mùa]] mà đã từng giết chết 1/7 [[trẻ em]] ở [[Europe|châu Âu]]<ref name="Fenner">{{chú thích sách|author=Fenner F, Henderson DA, Arita I, Ježek Z, Ladnyi, ID|url=http://whqlibdoc.who.int/smallpox/9241561106.pdf|accessdate = ngày 4 tháng 9 năm 2007 |format=PDF|title=Smallpox and its Eradication|publisher=World Health Organization|location=Geneva|year=1988|isbn=978-92-4-156110-5}}CS1 maint: Multiple names: authors list ([//en.wikipedia.org/wiki/Category:CS1_maint:_Multiple_names:_authors_list link]) {{chú thích sách|author=Fenner F, Henderson DA, Arita I, Ježek Z, Ladnyi, ID|url=http://whqlibdoc.who.int/smallpox/9241561106.pdf|accessdate = ngày 4 tháng 9 năm 2007 |format=PDF|title=Smallpox and its Eradication|publisher=World Health Organization|location=Geneva|year=1988|isbn=978-92-4-156110-5}}</ref> và gần như đã [[Vắc-xin bại liệt|loại bỏ được]] bệnh [[bại liệt]]. Một minh chứng khiêm tốn hơn, là các [[Nhiễm trùng|bệnh nhiễm trùng]] do ''[[Haemophilus influenzae]]'', nguyên nhân chính gây [[viêm màng não do vi khuẩn]] và các bệnh nghiêm trọng khác ở trẻ em, đã giảm hơn 99% ở [[Hoa Kỳ|Mỹ]] kể từ khi vắc-xin được đưa vào năm 1988.<ref>{{cite journal|author=Centers for Disease Control and Prevention (CDC)|title=Progress toward elimination of ''Haemophilus influenzae'' type b invasive disease among infants and children—United States, 1998–2000|journal=MMWR Morb Mortal Wkly Rep|volume=51|issue=11|pages=234–7|year=2002|pmid=11925021|url=https://www.cdc.gov/mmwr/preview/mmwrhtml/mm5111a4.htm}}</ref> Người ta ước tính rằng tiêm chủng đầy đủ, từ lúc còn [[sơ sinh]] đến khi [[Thanh thiếu niên|thiếu niên]], tất cả trẻ em Hoa Kỳ sinh ra trong một năm nhất định nào đó sẽ có 33.000 người được cứu sống và ngăn ngừa được 14 triệu ca nhiễm trùng.<ref>{{chú thích báo|author=Park A|url=http://www.time.com/time/health/article/0,8599,1808438-1,00.html|title=How safe are vaccines?|work=[[Time (magazine)|Time]]|date = ngày 21 tháng 5 năm 2008}}</ref>


Một số ý kiến phản bác lại cho rằng việc giảm các bệnh truyền nhiễm này là kết quả của việc cải thiện vệ sinh và điều kiện vệ sinh (chứ không phải tiêm chủng), hay những bệnh này đã bị suy giảm dần trước khi các loại vắc-xin cụ thể được giới thiệu. Những tuyên bố này không được hỗ trợ bởi dữ liệu khoa học; tỷ lệ mắc các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin có xu hướng dao động theo thời gian cho đến khi các loại vắc-xin cụ thể được đưa vào, thì tại thời điểm này, tỷ lệ này giảm xuống gần như bằng không. [[Trang web]] của [[Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ)|Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ]] đã đưa ra lập luận nhằm chống lại những nhận thức sai lầm phổ biến về vắc-xin rằng: <nowiki>''</nowiki>Chúng tôi mong đợi sự tin tưởng cải thiện vệ sinh tốt hơn khiến tỷ lệ mắc từng bệnh giảm xuống, đúng vào thời điểm loại vắc-xin cho bệnh đó được giới thiệu?<nowiki>''</nowiki><ref name="CDC: common misconceptions">{{chú thích web|url=https://www.cdc.gov/vaccines/vac-gen/6mishome.htm|title=Some common misconceptions about vaccination and how to respond to them|publisher=[[National Center for Immunization and Respiratory Diseases]], [[Centers for Disease Control and Prevention]]|accessdate=ngày 28 tháng 9 năm 2012|archiveurl=https://web.archive.org/web/20150120055820/http://www.cdc.gov/vaccines/vac-gen/6mishome.htm|archivedate=ngày 20 tháng 1 năm 2015}}</ref>
Một số ý kiến phản bác lại cho rằng việc giảm các bệnh truyền nhiễm này là kết quả của việc cải thiện vệ sinh và điều kiện vệ sinh (chứ không phải tiêm chủng), hay những bệnh này đã bị suy giảm dần trước khi các loại vắc-xin cụ thể được giới thiệu. Những tuyên bố này không được hỗ trợ bởi dữ liệu khoa học; tỷ lệ mắc các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin có xu hướng dao động theo thời gian cho đến khi các loại vắc-xin cụ thể được đưa vào, thì tại thời điểm này, tỷ lệ này giảm xuống gần như bằng không. [[Trang web]] của [[Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ)|Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ]] đã đưa ra lập luận nhằm chống lại những nhận thức sai lầm phổ biến về vắc-xin rằng: <nowiki>''</nowiki>Chúng tôi mong đợi sự tin tưởng cải thiện vệ sinh tốt hơn khiến tỷ lệ mắc từng bệnh giảm xuống, đúng vào thời điểm loại vắc-xin cho bệnh đó được giới thiệu?<nowiki>''</nowiki><ref name="CDC: common misconceptions">{{chú thích web|url=https://www.cdc.gov/vaccines/vac-gen/6mishome.htm|title=Some common misconceptions about vaccination and how to respond to them|publisher=[[National Center for Immunization and Respiratory Diseases]], [[Centers for Disease Control and Prevention]]|accessdate=ngày 28 tháng 9 năm 2012|archiveurl=https://web.archive.org/web/20150120055820/http://www.cdc.gov/vaccines/vac-gen/6mishome.htm|archivedate=ngày 20 tháng 1 năm 2015}}</ref>

Lời kêu gọi tập hợp khác của phong trào chống vắc-xin là kêu gọi [[Thử nghiệm lâm sàng|các thử nghiệm lâm sàng]] ngẫu nhiên, trong đó một [[Thí nghiệm|nhóm trẻ em thử nghiệm]] được tiêm chủng trong khi [[Nhóm kiểm soát|nhóm đối chứng]] không được chủng ngừa. Một nghiên cứu như vậy sẽ không bao giờ được chấp thuận vì nó đòi hỏi phải cố ý từ chối việc chăm sóc y tế tiêu chuẩn cho trẻ em, khiến nghiên cứu này trở nên [[Luân lý học|phi đạo đức]]. Các nghiên cứu đã được thực hiện để so sánh những người được tiêm chủng với những người chưa được tiêm chủng, nhưng các nghiên cứu này không phải là ngẫu nhiên. Hơn nữa, đã có một tài liệu chứng minh tính an toàn của vắc-xin bằng các phương pháp thử nghiệm khác.<ref>Novella, Steven, et al. ''The Skeptics' Guide to the Universe: How to Know What's Really Real in a World Increasingly Full of Fake''. Grand Central Publishing, 2018. p. 185.</ref>


Các nhà chỉ trích khác biện luận [[Miễn dịch thu được|khả năng miễn dịch]] được cung cấp bởi vắc-xin chỉ là tạm thời và đòi hỏi cần phải có thuốc tăng cường, trong khi những người còn sống sau mắc bệnh đã được [[Miễn dịch tự nhiên|miễn dịch vĩnh viễn]].<ref name="wolfesharp" /> Các triết lý của một số người hành nghề [[y học]] thay thế (“giải pháp thay thế thuốc”) không cùng ý tưởng vắc-xin có hiệu quả.<ref name="Ernst">{{cite journal |journal=Vaccine |year=2001 |volume=20 |issue=Suppl 1 |pages=S89–93 |title=Rise in popularity of complementary and alternative medicine: reasons and consequences for vaccination |author=Ernst E |doi=10.1016/S0264-410X(01)00290-0 |pmid=11587822}}</ref>
Các nhà chỉ trích khác biện luận [[Miễn dịch thu được|khả năng miễn dịch]] được cung cấp bởi vắc-xin chỉ là tạm thời và đòi hỏi cần phải có thuốc tăng cường, trong khi những người còn sống sau mắc bệnh đã được [[Miễn dịch tự nhiên|miễn dịch vĩnh viễn]].<ref name="wolfesharp" /> Các triết lý của một số người hành nghề [[y học]] thay thế (“giải pháp thay thế thuốc”) không cùng ý tưởng vắc-xin có hiệu quả.<ref name="Ernst">{{cite journal |journal=Vaccine |year=2001 |volume=20 |issue=Suppl 1 |pages=S89–93 |title=Rise in popularity of complementary and alternative medicine: reasons and consequences for vaccination |author=Ernst E |doi=10.1016/S0264-410X(01)00290-0 |pmid=11587822}}</ref>


== Tính an toàn của vắc-xin ==
=== Sức khỏe cộng đồng ===
[[Tập tin:Charlotte_Cleverley-Bisman.jpg|nhỏ|[[Charlotte Cleverley-Bisman]] đã bị cắt cụt một phần của cả tứ chi khi mới 7 tháng tuổi do [[Viêm não mô cầu|bệnh viêm não mô cầu]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.biocsl.co.nz/docs/957/642/NorthSouth_case-for-accination.pdf|tựa đề=The case for vaccination|tác giả=Wane|tên=Joanna|website=North & South|ngày truy cập=July 3, 2015}}</ref> Việc tiêm chủng rộng rãi hơn có thể bảo vệ những đứa trẻ như Cleverley-Bisman, những đứa trẻ còn quá nhỏ để tiêm phòng, khỏi mắc bệnh thông qua phát triển miễn dịch cộng đồng.<ref name="pmid21427399">{{Chú thích tạp chí|last=Fine|first=P.|last2=Eames|first2=K.|last3=Heymann|first3=D. L.|date=22 March 2011|title='Herd Immunity': A Rough Guide|journal=Clinical Infectious Diseases|volume=52|issue=7|pages=911–16|doi=10.1093/cid/cir007|pmid=21427399|doi-access=free}}</ref>]]
Không thể phủ nhận những cải tiến lớn trong tiêm chủng đã đóng góp quan trọng cho [[sức khỏe cộng đồng]]; nhưng vẫn tồn tại một mối quan tâm phổ biến hơn về tính an toàn.<ref name="LancetID">{{cite journal|journal=Lancet Infect Dis|year=2007|volume=7|issue=4|page=235|title=Tackling negative perceptions towards vaccination|doi=10.1016/S1473-3099(07)70057-9|pmid=17376373|author=<!-- unsigned editorial -->|url=http://www.thelancet.com/journals/laninf/article/PIIS1473-3099%2807%2970057-9/fulltext}}</ref> Như với bất kỳ [[Điều trị|điều trị y tế]] nào, vẫn có nguy cơ tiềm tàng vắc-xin gây nên những [[biến chứng]] nghiêm trọng,<ref>{{chú thích web|url=https://www.cdc.gov/vaccines/vac-gen/side-effects.htm#mmr|title=Possible Side-effects from Vaccines|accessdate=ngày 3 tháng 1 năm 2014|publisher=Centers for Disease Control and Prevention|date=ngày 26 tháng 8 năm 2013}}</ref> như phản ứng [[dị ứng]] nặng, nhưng không giống như hầu hết các can thiệp y tế khác, vắc-xin được cung cấp cho người khỏe mạnh và do đó, tiêu chuẩn về tính an toàn được kỳ vọng cao hơn.<ref>{{cite journal|title=Vaccine Safety: Current and Future Challenges|date=July 1998|url=https://www.utoronto.ca/virology/mby480/VaccineSafe/VaccineSafe.htm|last=Chen|first=Robert T.|journal=Pediatric Annals|accessdate=ngày 3 tháng 1 năm 2014|issue=7|volume=27|last2=Hibbs|first2=Beth|archive-date=2013-03-23|archive-url=https://web.archive.org/web/20130323144639/http://www.utoronto.ca/virology/mby480/VaccineSafe/VaccineSafe.htm}}</ref> Mặc dù những biến chứng nghiêm trọng do tiêm chủng có thể xảy ra, nhưng chúng cực kỳ hiếm gặp và ít phổ biến hơn rất nhiều so với các nguy cơ tương tự đến từ các [[Bệnh|bệnh tật]] mà vắc-xin ngăn ngừa.<ref name="CDC: common misconceptions" /> Khi sự thành công của các chương trình tiêm chủng tăng lên và tỷ lệ mắc bệnh giảm đi, sự chú ý của công chúng chuyển hướng từ nguy cơ mắc bệnh sang nguy cơ tiêm chủng,<ref name="BH">{{cite journal|journal=Current Opinion in Infectious Diseases|year=2007|volume=20|issue=3|pages=237–246|title=Adverse events following immunization: perception and evidence|vauthors=Bonhoeffer J, Heininger U|doi=10.1097/QCO.0b013e32811ebfb0|pmid=17471032|url=http://lib.ajaums.ac.ir/booklist/955899.pdf}}</ref> và điều này đang trở thành thách thức cho các cơ quan y tế trong việc duy trì sự ủng hộ của cộng đồng để tiến hành các chương trình tiêm chủng.<ref>{{cite journal |author=Mooney C |title=Why does the vaccine/autism controversy live on? |journal=Discover |url=http://discovermagazine.com/2009/jun/06-why-does-vaccine-autism-controversy-live-on |date=June 2009 }}</ref>
Việc phổ cập vắc xin không đầy đủ làm tăng nguy cơ mắc bệnh cho toàn bộ dân số, bao gồm cả những người đã được tiêm vắc xin, vì nó làm giảm [[Miễn dịch cộng đồng|khả năng miễn dịch cộng đồng]]. Ví dụ, vắc-xin sởi được tiêm cho trẻ 9-12 tháng tuổi, và khoảng thời gian ngắn giữa sự biến mất của kháng thể mẹ (trước đó vắc-xin thường không [[chuyển đổi huyết thanh]]) và nhiễm trùng tự nhiên có nghĩa là trẻ được tiêm chủng thường xuyên vẫn dễ bị tổn thương. Khả năng miễn dịch cộng đồng sẽ giảm bớt tính dễ bị tổn thương này nếu tất cả trẻ em đều được tiêm chủng. Tăng khả năng miễn dịch cộng đồng trong thời kỳ bùng phát hoặc nguy cơ bùng phát có lẽ là cách biện minh được chấp nhận rộng rãi nhất cho việc tiêm phòng đại trà. Khi một loại vắc-xin mới được giới thiệu, việc tiêm chủng đại trà sẽ giúp tăng tỷ lệ bao phủ nhanh chóng.<ref>{{Chú thích sách|title=Mass Vaccination: Global Aspects – Progress and Obstacles|last=Heymann|first=D. L.|last2=Aylward|first2=R. B.|year=2006|isbn=978-3-540-29382-8|series=Current Topics in Microbiology and Immunology|volume=304|pages=1–16|chapter=Mass Vaccination: When and Why|doi=10.1007/3-540-36583-4_1|pmid=16989261|chapter-url=https://semanticscholar.org/paper/274c516d5c4296ad8178acdeb8bd4f6077243f3d}}</ref>

Nếu đủ lượng dân cư được tiêm phòng, thì khả năng miễn dịch cộng đồng sẽ có hiệu lực, làm giảm nguy cơ đối với những người không thể nhận vắc xin vì họ quá trẻ hoặc già, suy giảm miễn dịch hoặc dị ứng nghiêm trọng với các thành phần trong vắc xin.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Bester JC|date=September 2017|title=Measles Vaccination is Best for Children: The Argument for Relying on Herd Immunity Fails|journal=Journal of Bioethical Inquiry|volume=14|issue=3|pages=375–84|doi=10.1007/s11673-017-9799-4|pmid=28815434}}</ref> Kết quả đối với những người có hệ thống miễn dịch bị tổn hại bị nhiễm bệnh thường tồi tệ hơn so với mặt bằng dân số chung.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.cdc.gov/features/ReasonsToVaccinate|tựa đề=Immunization|ngày=2018-08-30|nhà xuất bản=CDC}}</ref>

=== Hiệu quả chi phí ===
Các vắc xin thường được sử dụng có hiệu quả về chi phí và phòng ngừa để tăng cường sức khỏe, so với việc điều trị bệnh cấp tính hoặc mãn tính. Tại Hoa Kỳ trong năm 2001, việc [[Lịch tiêm chủng|chủng ngừa]] định kỳ cho trẻ em chống lại bảy bệnh được ước tính sẽ tiết kiệm hơn 40 tỷ đô la cho mỗi nhóm dân số năm sinh trong tổng chi phí xã hội, bao gồm 10 tỷ đô la [[Kinh tế sức khỏe|chi phí y tế]] trực tiếp và tỷ lệ lợi ích xã hội trên chi phí tiêm chủng này được ước tính là được 16,5.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Zhou F, Santoli J, Messonnier ML, Yusuf HR, Shefer A, Chu SY, Rodewald L, Harpaz R|date=December 2005|title=Economic evaluation of the 7-vaccine routine childhood immunization schedule in the United States, 2001|journal=Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine|volume=159|issue=12|pages=1136–44|doi=10.1001/archpedi.159.12.1136|pmid=16330737|doi-access=free}}</ref>

=== Sự cần thiết ===
Khi một chương trình tiêm chủng làm giảm thành công mối đe dọa bệnh tật, nó có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh khi những ký ức văn hóa về ảnh hưởng của căn bệnh đó mờ đi. Lúc này, cha mẹ có thể cảm thấy mình không có gì để mất khi không tiêm phòng cho con.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Fine PE, Clarkson JA|date=December 1986|title=Individual versus public priorities in the determination of optimal vaccination policies|journal=American Journal of Epidemiology|volume=124|issue=6|pages=1012–20|doi=10.1093/oxfordjournals.aje.a114471|pmid=3096132}}</ref> Nếu có đủ số người hy vọng trở thành [[Kẻ đi xe không trả tiền|những người đi ké xe miễn phí]], nhận được những lợi ích của miễn dịch cộng đồng mà không cần tiêm phòng, thì mức độ tiêm phòng có thể giảm xuống mức mà khả năng miễn dịch cộng đồng không còn hiệu quả.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Buttenheim AM, Asch DA|date=December 2013|title=Making vaccine refusal less of a free ride|journal=Human Vaccines & Immunotherapeutics|volume=9|issue=12|pages=2674–75|doi=10.4161/hv.26676|pmc=4162060|pmid=24088616}}</ref> Theo [[Jennifer Reich]], những bậc cha mẹ tin rằng tiêm chủng là khá hiệu quả nhưng có thể thích con cái của họ vẫn chưa được tiêm chủng, là những người có nhiều khả năng bị thuyết phục để thay đổi quyết định của họ, miễn là họ được tiếp cận đúng cách.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.vox.com/first-person/2019/5/8/18535944/jessica-biel-measles-2019-outbreak-anti-vax|tựa đề=I've talked to dozens of parents about why they don't vaccinate. Here's what they told me.|tác giả=Reich|tên=Jennifer|lk tác giả=Jennifer Reich|ngày=June 13, 2019|website=Vox|ngày truy cập=July 5, 2019}}</ref>

== Tính an toàn ==
Trong khi một số nhà chống tiêm chủng công khai phủ nhận những cải thiện của việc tiêm chủng đối với sức khỏe cộng đồng hoặc tin vào [[Thuyết âm mưu|các thuyết âm mưu]],<ref name="wolfesharp2">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Wolfe RM, Sharp LK|date=August 2002|title=Anti-vaccinationists past and present|journal=BMJ|volume=325|issue=7361|pages=430–32|doi=10.1136/bmj.325.7361.430|pmc=1123944|pmid=12193361}}</ref> việc viện dẫn những lo ngại về sự an toàn là phổ biến hơn nhiều.<ref name="LancetID2">{{Chú thích tạp chí|last=The Lancet Infectious Diseases|date=April 2007|title=Tackling negative perceptions towards vaccination|journal=The Lancet Infectious Diseases|volume=7|issue=4|pages=235|doi=10.1016/S1473-3099(07)70057-9|pmid=17376373}}</ref> Như với bất kỳ [[Điều trị|điều trị y tế]] nào, vẫn có nguy cơ tiềm tàng vắc-xin gây nên những [[biến chứng]] nghiêm trọng,<ref>{{chú thích web|url=https://www.cdc.gov/vaccines/vac-gen/side-effects.htm#mmr|title=Possible Side-effects from Vaccines|accessdate=ngày 3 tháng 1 năm 2014|publisher=Centers for Disease Control and Prevention|date=ngày 26 tháng 8 năm 2013}}</ref> như phản ứng [[dị ứng]] nặng, nhưng không giống như hầu hết các can thiệp y tế khác, vắc-xin được cung cấp cho người khỏe mạnh và do đó, tiêu chuẩn về tính an toàn được kỳ vọng cao hơn.<ref>{{cite journal|title=Vaccine Safety: Current and Future Challenges|date=July 1998|url=https://www.utoronto.ca/virology/mby480/VaccineSafe/VaccineSafe.htm|last=Chen|first=Robert T.|journal=Pediatric Annals|accessdate=ngày 3 tháng 1 năm 2014|issue=7|volume=27|last2=Hibbs|first2=Beth|archive-date=2013-03-23|archive-url=https://web.archive.org/web/20130323144639/http://www.utoronto.ca/virology/mby480/VaccineSafe/VaccineSafe.htm}}</ref> Mặc dù những biến chứng nghiêm trọng do tiêm chủng có thể xảy ra, nhưng chúng cực kỳ hiếm gặp và ít phổ biến hơn rất nhiều so với các nguy cơ tương tự đến từ các [[Bệnh|bệnh tật]] mà vắc-xin ngăn ngừa.<ref name="CDC: common misconceptions" /> Khi sự thành công của các chương trình tiêm chủng tăng lên và tỷ lệ mắc bệnh giảm đi, sự chú ý của công chúng chuyển hướng từ nguy cơ mắc bệnh sang nguy cơ tiêm chủng,<ref name="BH">{{cite journal|journal=Current Opinion in Infectious Diseases|year=2007|volume=20|issue=3|pages=237–246|title=Adverse events following immunization: perception and evidence|vauthors=Bonhoeffer J, Heininger U|doi=10.1097/QCO.0b013e32811ebfb0|pmid=17471032|url=http://lib.ajaums.ac.ir/booklist/955899.pdf}}</ref> và điều này đang trở thành thách thức cho các cơ quan y tế trong việc duy trì sự ủng hộ của cộng đồng để tiến hành các chương trình tiêm chủng.<ref>{{cite journal |author=Mooney C |title=Why does the vaccine/autism controversy live on? |journal=Discover |url=http://discovermagazine.com/2009/jun/06-why-does-vaccine-autism-controversy-live-on |date=June 2009 }}</ref>

Sự thành công vượt bậc của một số loại vắc xin đã làm cho một số bệnh trở nên hiếm gặp và do đó, điều này đã dẫn đến suy nghĩ heuristic sai lầm, trong việc cân nhắc rủi ro với lợi ích, giữa những người do dự không muốn tiêm vắc xin.<ref name="Jacobson20152">{{Chú thích tạp chí|last=Jacobson|first=RM|last2=St Sauver|first2=JL|last3=Finney Rutten|first3=LJ|date=November 2015|title=Vaccine Hesitancy|journal=Mayo Clinic Proceedings|volume=90|issue=11|pages=1562–68|doi=10.1016/j.mayocp.2015.09.006|pmid=26541249|doi-access=free}}</ref> Một khi các bệnh như vậy (ví dụ, ''[[Haemophilus influenzae|Haemophilus influenzae B]]'') giảm tỷ lệ mắc bệnh, mọi người có thể không còn đánh giá được mức độ nghiêm trọng của bệnh do không thấy bệnh xuất hiện và trở nên tự mãn.<ref name="Jacobson20152" /> Việc thiếu kinh nghiệm bản thân đối với các bệnh này làm giảm nguy cơ nhận thức được và do đó làm giảm lợi ích nhận thức của việc chủng ngừa.<ref name="Marshall20132">{{Chú thích tạp chí|last=Marshall|first=GS|date=2013|title=Roots of vaccine hesitancy|journal=S D Med|volume=Spec no|pages=52–57|pmid=23444592}}</ref> Ngược lại, một số bệnh nhất định (ví dụ, [[cúm]]) vẫn phổ biến đến mức những người do dự với vắc-xin nhầm tưởng rằng bệnh không đe dọa sức khỏe mặc dù có bằng chứng rõ ràng rằng bệnh cúm gây ra mối đe dọa đáng kể đối với sức khỏe con người.<ref name="Jacobson20152" /> [[Thiên vị thiếu sót]] và [[Thiên kiến xác nhận|thành kiến không xác nhận]] cũng góp phần vào sự do dự không muốn tiêm vắc xin.<ref name="Jacobson20152" /><ref name="McClure20172">{{Chú thích tạp chí|last=McClure|first=CC|last2=Cataldi|first2=JR|last3=O'Leary|first3=ST|date=August 2017|title=Vaccine Hesitancy: Where We Are and Where We Are Going|journal=Clinical Therapeutics|volume=39|issue=8|pages=1550–62|doi=10.1016/j.clinthera.2017.07.003|pmid=28774498|doi-access=free}}</ref>


Mối quan tâm về tính an toàn tiêm chủng thường đi theo một khuôn mẫu. Đầu tiên, một số nhà điều tra xét rằng sự gia tăng tỷ lệ hiện hành tình trạng y tế hoặc không rõ nguyên nhân là tác dụng bất lợi do tiêm chủng mang lại. Nghiên cứu ban đầu và những nghiên cứu theo sau của cùng một nhóm có phương pháp nghiên cứu không thỏa đáng - điển hình là nghiên cứu loạt ca bệnh không được kiểm soát hoặc kiểm soát kém. Loan báo trước cáo buộc vắc-xin về tác dụng bất lợi, cộng hưởng với những cá nhân mắc bệnh, cùng với việc đánh giá quá thấp nguy cơ tiềm tàng của việc từ bỏ tiêm phòng cho những đối tượng mà vắc-xin có thể bảo vệ. Trong khi đó những nhóm khác thì cố gắng phỏng lại nghiên cứu ban đầu nhưng thất bại để thu về kết quả tương tự. Cuối cùng, phải mất nhiều năm để lấy lại niềm tin của công chúng về vắc-xin.<ref name="BH" /><ref>{{chú thích báo |url=https://www.theguardian.com/society/2010/feb/02/lancet-retracts-mmr-paper |title=Lancet retracts 'utterly false' MMR paper |last=Boseley |first=Sarah |date=ngày 2 tháng 2 năm 2010 |work=The Guardian |accessdate=ngày 2 tháng 2 năm 2010}}</ref> Các tác dụng bất lợi được gán kết cho vắc-xin thường không rõ nguồn gốc, tỷ lệ mắc ngày càng tăng, một số tính hợp lý [[sinh học]], xảy ra gần với thời điểm tiêm chủng và kết quả kinh hoàng.<ref>Leask J, Chapman S, Cooper Robbins SC.&#x20;&#x20;'All manner of ills': The features of serious diseases attributed to vaccination.&#x20;''Vaccine''.&#x20;2009.&#x20;[//en.wikipedia.org/wiki/Digital_object_identifier doi]:[[doi:10.1016/j.vaccine.2009.10.042|10.1016/j.vaccine.2009.10.042]].&#x20;<templatestyles src="Module:Citation/CS1/styles.css" />[//en.wikipedia.org/wiki/PubMed_Identifier PMID]&nbsp;[//www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/19879997 19879997].</ref> Trong gần như tất cả các trường hợp, tác động sức khỏe cộng đồng bị giới hạn bởi ranh giới của nhiều nền [[văn hóa]] khác nhau: Người nói tiếng Anh lo ngại về một loại vắc-xin gây ra bệnh [[tự kỷ]], trong khi người nói [[tiếng Pháp]] lo ngại về một loại vắc-xin khác gây ra bệnh [[đa xơ cứng]], và [[Nigeria|người Nigeria]] lại lo ngại rằng vắc-xin thứ ba gây nên [[vô sinh]].<ref>{{chú thích sách|last=Goldacre|first=Ben|title=Bad Science|url=https://archive.org/details/badscience0000gold_e1h0|year=2009|publisher=Fourth Estate|location=London|isbn=9780007284870|pages=[https://archive.org/details/badscience0000gold_e1h0/page/292 292]–294}}</ref>
Mối quan tâm về tính an toàn tiêm chủng thường đi theo một khuôn mẫu. Đầu tiên, một số nhà điều tra xét rằng sự gia tăng tỷ lệ hiện hành tình trạng y tế hoặc không rõ nguyên nhân là tác dụng bất lợi do tiêm chủng mang lại. Nghiên cứu ban đầu và những nghiên cứu theo sau của cùng một nhóm có phương pháp nghiên cứu không thỏa đáng - điển hình là nghiên cứu loạt ca bệnh không được kiểm soát hoặc kiểm soát kém. Loan báo trước cáo buộc vắc-xin về tác dụng bất lợi, cộng hưởng với những cá nhân mắc bệnh, cùng với việc đánh giá quá thấp nguy cơ tiềm tàng của việc từ bỏ tiêm phòng cho những đối tượng mà vắc-xin có thể bảo vệ. Trong khi đó những nhóm khác thì cố gắng phỏng lại nghiên cứu ban đầu nhưng thất bại để thu về kết quả tương tự. Cuối cùng, phải mất nhiều năm để lấy lại niềm tin của công chúng về vắc-xin.<ref name="BH" /><ref>{{chú thích báo |url=https://www.theguardian.com/society/2010/feb/02/lancet-retracts-mmr-paper |title=Lancet retracts 'utterly false' MMR paper |last=Boseley |first=Sarah |date=ngày 2 tháng 2 năm 2010 |work=The Guardian |accessdate=ngày 2 tháng 2 năm 2010}}</ref> Các tác dụng bất lợi được gán kết cho vắc-xin thường không rõ nguồn gốc, tỷ lệ mắc ngày càng tăng, một số tính hợp lý [[sinh học]], xảy ra gần với thời điểm tiêm chủng và kết quả kinh hoàng.<ref>Leask J, Chapman S, Cooper Robbins SC.&#x20;&#x20;'All manner of ills': The features of serious diseases attributed to vaccination.&#x20;''Vaccine''.&#x20;2009.&#x20;[//en.wikipedia.org/wiki/Digital_object_identifier doi]:[[doi:10.1016/j.vaccine.2009.10.042|10.1016/j.vaccine.2009.10.042]].&#x20;<templatestyles src="Module:Citation/CS1/styles.css" />[//en.wikipedia.org/wiki/PubMed_Identifier PMID]&nbsp;[//www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/19879997 19879997].</ref> Trong gần như tất cả các trường hợp, tác động sức khỏe cộng đồng bị giới hạn bởi ranh giới của nhiều nền [[văn hóa]] khác nhau: Người nói tiếng Anh lo ngại về một loại vắc-xin gây ra bệnh [[tự kỷ]], trong khi người nói [[tiếng Pháp]] lo ngại về một loại vắc-xin khác gây ra bệnh [[đa xơ cứng]], và [[Nigeria|người Nigeria]] lại lo ngại rằng vắc-xin thứ ba gây nên [[vô sinh]].<ref>{{chú thích sách|last=Goldacre|first=Ben|title=Bad Science|url=https://archive.org/details/badscience0000gold_e1h0|year=2009|publisher=Fourth Estate|location=London|isbn=9780007284870|pages=[https://archive.org/details/badscience0000gold_e1h0/page/292 292]–294}}</ref>

=== Tự kỷ ===
Ý tưởng về mối liên hệ giữa vắc-xin và chứng tự kỷ đã được nghiên cứu rộng rãi và được kết luận là sai.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Taylor|first=Luke E.|last2=Swerdfeger|first2=Amy L.|last3=Eslick|first3=Guy D.|date=2014-06-17|title=Vaccines are not associated with autism: an evidence-based meta-analysis of case-control and cohort studies|journal=Vaccine|volume=32|issue=29|pages=3623–29|doi=10.1016/j.vaccine.2014.04.085|issn=1873-2518|pmid=24814559}}</ref><ref name="Smith2017">{{Chú thích tạp chí|last=Smith|first=IM|last2=MacDonald|first2=NE|date=August 2017|title=Countering evidence denial and the promotion of pseudoscience in autism spectrum disorder|journal=Autism Research|type=Review|volume=10|issue=8|pages=1334–37|doi=10.1002/aur.1810|pmid=28544626}}</ref> Sự [[Sự đồng thuận khoa học|đồng thuận về mặt khoa học]] là không có mối quan hệ, nhân quả hay cách nào khác, giữa vắc-xin và tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ,<ref name="BH2">{{Chú thích tạp chí|last=Bonhoeffer|first=Jan|last2=Heininger|first2=Ulrich|date=June 2007|title=Adverse events following immunization: perception and evidence|url=https://semanticscholar.org/paper/b4aae434337cd6e9cdc415b0ab47869524fe957a|journal=Current Opinion in Infectious Diseases|volume=20|issue=3|pages=237–46|doi=10.1097/QCO.0b013e32811ebfb0|pmid=17471032}}</ref><ref>{{Chú thích báo|url=https://www.theguardian.com/society/2010/feb/02/lancet-retracts-mmr-paper|title=Lancet retracts 'utterly false' MMR paper|last=Boseley|first=Sarah|date=February 2, 2010|work=The Guardian|access-date=February 2, 2010}}</ref><ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Taylor LE, Swerdfeger AL, Eslick GD|date=June 2014|title=Vaccines are not associated with autism: an evidence-based meta-analysis of case-control and cohort studies|journal=Vaccine|volume=32|issue=29|pages=3623–29|doi=10.1016/j.vaccine.2014.04.085|pmid=24814559}}</ref> và các thành phần vắc-xin không gây ra chứng tự kỷ.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.cdc.gov/vaccinesafety/concerns/autism.html|tựa đề=Vaccines Do Not Cause Autism Concerns|ngày=2018-12-12|website=Centers for Disease Control and Prevention|ngôn ngữ=en-us|ngày truy cập=2019-02-07}}</ref>

Tuy nhiên, phong trào chống tiêm chủng vẫn tiếp tục thúc đẩy những huyền thoại, [[thuyết âm mưu]] và thông tin sai lệch liên kết hai điều này.<ref>{{Chú thích tạp chí|date=February 2019|title=How autism myths came to fuel anti-vaccination movements|url=https://www.popsci.com/timeline-autism-myth-anti-vaccine|journal=Popular Science|language=en}}</ref> Một chiến thuật đang phát triển dường như là "thúc đẩy nghiên cứu không liên quan [như] một tập hợp tích cực của một số nghiên cứu có liên quan hoặc có liên quan đến ngoại vi nhằm cố gắng biện minh cho khoa học làm cơ sở cho một tuyên bố đáng nghi vấn".<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Foster|first=Craig A.|last2=Ortiz|first2=Sarenna M.|date=2017|title=Vaccines, Autism, and the Promotion of Irrelevant Research: A Science-Pseudoscience Analysis|url=https://www.csicop.org/si/show/vaccines_autism_and_the_promotion_of_irrelevant_research_a_science-pseudosc|journal=[[Skeptical Inquirer]]|volume=41|issue=3|pages=44–48|archive-url=https://web.archive.org/web/20181006204019/https://www.csicop.org/si/show/vaccines_autism_and_the_promotion_of_irrelevant_research_a_science-pseudosc|archive-date=2018-10-06|access-date=6 October 2018}}</ref>

==== Thiomersal ====
[[Thiomersal]] (được gọi là "thimerosal" ở Mỹ) là một [[Thuốc kháng nấm|chất bảo quản chống nấm]] được sử dụng với lượng nhỏ trong một số loại vắc xin đa liều (khi cùng một lọ được mở và sử dụng cho nhiều bệnh nhân) để ngăn ngừa nhiễm bẩn vắc xin. <ref name="Baker">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Baker JP|date=February 2008|title=Mercury, vaccines, and autism: one controversy, three histories|journal=American Journal of Public Health|volume=98|issue=2|pages=244–53|doi=10.2105/AJPH.2007.113159|pmc=2376879|pmid=18172138}}</ref> Mặc dù hiệu quả của thiomersal, việc sử dụng thiomersal còn gây tranh cãi vì nó có thể bị chuyển hóa hoặc phân hủy trong cơ thể thành [[ethylmercury]] (C<sub>2</sub>H<sub>5</sub>Hg<sup>+</sup>) và [[thiosalicylate]].<ref name="T-in-vaccines">{{Chú thích web|url=https://www.fda.gov/cber/vaccine/thimerosal.htm|tựa đề=Thimerosal in vaccines|ngày=June 3, 2008|nhà xuất bản=Center for Biologics Evaluation and Research, U.S. Food and Drug Administration|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20080726010009/https://www.fda.gov/cber/vaccine/thimerosal.htm|ngày lưu trữ=July 26, 2008|url-status=dead|ngày truy cập=July 25, 2008}}</ref><ref name="cber2019">{{Chú thích tạp chí|last=Center for Biologics Evaluation and Research|date=April 5, 2019|title=Thimerosal and Vaccines|url=https://www.fda.gov/vaccines-blood-biologics/safety-availability-biologics/thimerosal-and-vaccines|journal=FDA|publisher=fda.gov}}</ref> Kết quả là vào năm 1999, [[Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ)|Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh]] (CDC) và [[Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ|Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ]] (AAP) đã yêu cầu các nhà sản xuất vắc xin loại bỏ thiomersal khỏi vắc xin càng nhanh càng tốt theo [[nguyên tắc phòng ngừa]]. Thiomersal hiện không có mặt trong tất cả các loại vắc xin thông thường của Hoa Kỳ và Châu Âu, ngoại trừ một số chế phẩm của [[Vắc-xin cúm|vắc xin cúm]].<ref name="Offit">{{Chú thích tạp chí|author-link=Paul Offit|vauthors=Offit PA|date=September 2007|title=Thimerosal and vaccines – a cautionary tale|url=https://semanticscholar.org/paper/c2f25efef0ed507beef6bce8f4bf33cb6f51e524|journal=The New England Journal of Medicine|volume=357|issue=13|pages=1278–79|doi=10.1056/NEJMp078187|pmid=17898096}}</ref> Lượng vết vẫn còn trong một số vắc xin do quá trình sản xuất, ở mức tối đa xấp xỉ một microgram, khoảng 15% lượng thủy ngân trung bình hàng ngày ở Hoa Kỳ đối với người lớn và 2,5% mức hàng ngày được [[Tổ chức Y tế Thế giới|WHO]] coi là có thể chấp nhận được.<ref name="cber2019" /><ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Bose-O'Reilly S, McCarty KM, Steckling N, Lettmeier B|date=September 2010|title=Mercury exposure and children's health|journal=Current Problems in Pediatric and Adolescent Health Care|volume=40|issue=8|pages=186–215|doi=10.1016/j.cppeds.2010.07.002|pmc=3096006|pmid=20816346}}</ref>

Hành động này làm dấy lên lo ngại rằng thiomersal có thể là nguyên nhân gây ra chứng tự kỷ.<ref name="Offit" /> Ý tưởng này hiện đang bị bác bỏ, vì tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ tăng đều đặn ngay cả sau khi loại bỏ thiomersal khỏi vắc-xin thời thơ ấu.<ref name="Gerber">{{Chú thích tạp chí|author-link2=Paul Offit|vauthors=Gerber JS, Offit PA|date=February 2009|title=Vaccines and autism: a tale of shifting hypotheses|journal=Clinical Infectious Diseases|volume=48|issue=4|pages=456–61|doi=10.1086/596476|pmc=2908388|pmid=19128068|lay-url=https://web.archive.org/web/20110225143641/http://www.idsociety.org/Content.aspx?id=13336|lay-source=IDSA|lay-date=2009-01-30}}</ref> Hiện tại không có bằng chứng khoa học được chấp nhận rằng việc tiếp xúc với thiomersal là một yếu tố gây ra chứng tự kỷ.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Doja A, Roberts W|date=November 2006|title=Immunizations and autism: a review of the literature|journal=The Canadian Journal of Neurological Sciences|volume=33|issue=4|pages=341–46|doi=10.1017/s031716710000528x|pmid=17168158|doi-access=free}}</ref><ref name="Spencer2017">{{Chú thích tạp chí|last=Spencer|first=JP|last2=Trondsen Pawlowski|first2=RH|last3=Thomas|first3=S|date=June 2017|title=Vaccine Adverse Events: Separating Myth from Reality.|url=https://www.aafp.org/afp/2017/0615/p786.html|journal=American Family Physician|volume=95|issue=12|pages=786–94|pmid=28671426}}</ref> Kể từ năm 2000, các bậc cha mẹ ở Hoa Kỳ đã theo đuổi một khoản bồi thường hợp pháp từ một quỹ liên bang với lập luận rằng thiomersal gây ra chứng tự kỷ ở con họ.<ref name="Sugarman">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Sugarman SD|date=September 2007|title=Cases in vaccine court – legal battles over vaccines and autism|url=https://works.bepress.com/stephen_sugarman/77|journal=The New England Journal of Medicine|volume=357|issue=13|pages=1275–77|doi=10.1056/NEJMp078168|pmid=17898095}}</ref> Một ủy ban năm 2004 của Viện Y học Hoa Kỳ (IOM) ủng hộ việc bác bỏ bất kỳ mối quan hệ nhân quả nào giữa vắc xin chứa thiomersal và chứng tự kỷ.<ref name="ISRC">{{Chú thích sách|url=http://www.nap.edu/catalog.php?record_id=10997|title=Immunization Safety Review: Vaccines and Autism|last=Immunization Safety Review Committee|publisher=The National Academies Press|year=2004|isbn=978-0-309-09237-1|doi=10.17226/10997|pmid=20669467}}</ref> Nồng độ thiomersal được sử dụng trong vắc xin như một chất kháng khuẩn nằm trong khoảng từ 0,001% (1 phần trong 100.000) đến 0,01% (1 phần trong 10.000).<ref name="FDAThiomersalTuna">{{Chú thích web|url=https://www.fda.gov/vaccines-blood-biologics/safety-availability-biologics/thimerosal-and-vaccines#pres|tựa đề=Thimerosal and Vaccines|ngày=April 5, 2019|website=fda.gov|nhà xuất bản=U.S. Food and Drug Administration}}</ref> Một loại vắc-xin chứa 0,01% thiomersal có 25 microgam thủy ngân trên mỗi liều 0,5 mL, gần bằng lượng thủy ngân nguyên tố được tìm thấy trong một lon [[Cá ngừ đại dương|cá ngừ nặng]] 3 ounce.<ref name="FDAThiomersalTuna" /> Có bằng chứng khoa học được đánh giá ngang hàng mạnh mẽ ủng hộ sự an toàn của vắc xin có chứa thiomersal.<ref name="FDAThiomersalTuna" />

==== Vắc xin MMR ====
Ở Anh, [[vắc-xin MMR]] là chủ đề gây tranh cãi sau khi công bố trên ''[[The Lancet|tạp chí The Lancet]]'' năm 1998 của [[Andrew Wakefield]] và những người khác báo cáo tiền sử trường hợp của mười hai trẻ em hầu hết [[Rối loạn phổ tự kỷ|mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ]] khởi phát ngay sau khi tiêm vắc-xin.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Wakefield AJ, Murch SH, Anthony A, Linnell J, Casson DM, Malik M, Berelowitz M, Dhillon AP, Thomson MA, Harvey P, Valentine A, Davies SE, Walker-Smith JA|date=February 1998|title=Ileal-lymphoid-nodular hyperplasia, non-specific colitis, and pervasive developmental disorder in children|journal=Lancet|volume=351|issue=9103|pages=637–41|doi=10.1016/S0140-6736(97)11096-0|pmid=9500320}}{{Retracted}}</ref> Tại một cuộc họp báo năm 1998, Wakefield gợi ý rằng tiêm cho trẻ em với ba liều riêng biệt sẽ an toàn hơn so với tiêm một mũi duy nhất. Đề xuất này không được bài báo ủng hộ và một số nghiên cứu được đánh giá ngang hàng sau đó đã không cho thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa vắc-xin và chứng tự kỷ.<ref name="NHS">{{Chú thích web|url=https://www.nhs.uk/conditions/vaccinations/mmr-vaccine/|tựa đề=MMR vaccine|tác giả=National Health Service|năm=2015|ngày truy cập=4 July 2018}}</ref> Sau đó, có thông tin cho rằng Wakefield đã nhận được tài trợ từ các đương sự chống lại các nhà sản xuất vắc xin và anh đã không thông báo cho đồng nghiệp hoặc cơ quan y tế về [[Xung đột lợi ích|xung đột lợi ích của mình]].<ref>{{Chú thích báo|url=http://www.timesonline.co.uk/tol/news/uk/health/article1027603.ece|title=Revealed: MMR research scandal|last=Deer B|date=2004-02-22|work=The Sunday Times|access-date=2007-09-23}}</ref> Nếu điều này được biết đến, việc xuất bản trong ''The Lancet'' sẽ không diễn ra theo cách mà nó đã làm.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Horton R|date=March 2004|title=The lessons of MMR|journal=Lancet|volume=363|issue=9411|pages=747–49|doi=10.1016/S0140-6736(04)15714-0|pmid=15016482}}</ref> Wakefield đã bị chỉ trích nặng nề về cơ sở khoa học và đạo đức về cách thức nghiên cứu được tiến hành<ref name="paid_children">{{Chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/health/6289166.stm|title=MMR scare doctor 'paid children'|date=2007-07-16|work=BBC News}}</ref> và vì đã gây ra sự sụt giảm tỷ lệ tiêm chủng, khi tỷ lệ tiêm chủng ở Anh đã giảm xuống còn 80% trong những năm sau khi nghiên cứu này được xuất bản.<ref>{{Chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/health/5118166.stm|title=Doctors issue plea over MMR jab|date=2006-06-26|work=BBC News|access-date=2007-11-23}}</ref><ref name="Alazraki11">{{Chú thích báo|url=http://www.dailyfinance.com/2011/01/12/autism-vaccine-fraud-wakefield-cost-money-deaths/|title=The Autism Vaccine Fraud: Dr. Wakefield's Costly Lie to Society|last=Alazraki M|date=January 12, 2011|work=DailyFinance, AOL Money & Finance|access-date=October 18, 2011|archive-url=https://web.archive.org/web/20111027104603/http://www.dailyfinance.com/2011/01/12/autism-vaccine-fraud-wakefield-cost-money-deaths/|archive-date=October 27, 2011}}</ref> Năm 2004, bản giải thích MMR và chứng tự kỷ của bài báo đã được chính thức rút lại bởi mười trong số mười ba đồng tác giả của nó,<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Murch SH, Anthony A, Casson DH, Malik M, Berelowitz M, Dhillon AP, Thomson MA, Valentine A, Davies SE, Walker-Smith JA|date=March 2004|title=Retraction of an interpretation|journal=Lancet|volume=363|issue=9411|pages=750|doi=10.1016/S0140-6736(04)15715-2|pmid=15016483}}</ref> và vào năm 2010 ''c''ác biên tập viên của ''The Lancet'' đã rút lại toàn bộ bài báo.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=The Editors Of The Lancet|date=February 2010|title=Retraction – Ileal-lymphoid-nodular hyperplasia, non-specific colitis, and pervasive developmental disorder in children|journal=Lancet|volume=375|issue=9713|pages=445|doi=10.1016/S0140-6736(10)60175-4|pmid=20137807|lay-url=http://news.bbc.co.uk/2/low/health/8493753.stm|lay-source=BBC News|lay-date=2010-02-02}}</ref> Wakefield đã bị loại khỏi [[Hội đồng y khoa tổng quát|sổ đăng ký y tế của Vương quốc Anh]], với một tuyên bố xác định cố ý làm sai lệch trong nghiên cứu được đăng trên ''The Lancet'',<ref name="gmc-uk_Wakefield_SPM">{{Chú thích web|url=http://www.gmc-uk.org/Wakefield_SPM_and_SANCTION.pdf_32595267.pdf|tựa đề=General Medical Council, Fitness to Practise Panel Hearing, 24 May 2010, Andrew Wakefield, Determination of Serious Professional Misconduct|nhà xuất bản=General Medical Council|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20130512115524/http://www.gmc-uk.org/Wakefield_SPM_and_SANCTION.pdf_32595267.pdf|ngày lưu trữ=May 12, 2013|url-status=dead|ngày truy cập=September 18, 2011}}</ref> và bị cấm hành nghề y tại Vương quốc Anh.<ref name="MeikleBoseley">{{Cite news|url=https://www.theguardian.com/society/2010/may/24/mmr-doctor-andrew-wakefield-struck-off|title=MMR row doctor Andrew Wakefield struck off register|last1=Meikle|first1=James|date=May 24, 2010|work=The Guardian|access-date=May 24, 2010|archive-url=https://web.archive.org/web/20100527003931/http://www.guardian.co.uk/society/2010/may/24/mmr-doctor-andrew-wakefield-struck-off|archive-date=May 27, 2010|last2=Boseley|first2=Sarah|location=London|url-status=live}}</ref>

CDC, IOM của [[Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ|Học viện Khoa học Quốc gia]], [[Bộ Y tế (Úc)|Bộ Y tế]] Australia và [[dịch vụ y tê quôc gia|Dịch vụ Y tế Quốc gia]] Anh đều kết luận rằng không có bằng chứng về mối liên hệ giữa vắc-xin MMR và chứng tự kỷ.<ref name="ISRC2">{{Chú thích sách|url=http://www.nap.edu/catalog.php?record_id=10997|title=Immunization Safety Review: Vaccines and Autism|last=Immunization Safety Review Committee|publisher=The National Academies Press|year=2004|isbn=978-0-309-09237-1|doi=10.17226/10997|pmid=20669467}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://cdc.gov/vaccinesafety/Concerns/Autism/Index.html|tựa đề=Concerns about autism|ngày=2010-01-15|nhà xuất bản=Centers for Disease Control and Prevention}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.mmrthefacts.nhs.uk/|tựa đề=MMR The facts|nhà xuất bản=United Kingdom [[National Health Service]]|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20070615000359/http://www.mmrthefacts.nhs.uk/|ngày lưu trữ=June 15, 2007|url-status=dead|ngày truy cập=June 13, 2007}}</ref><ref name="AustraliaVaccines">{{Chú thích web|url=https://www.health.gov.au/health-topics/immunisation/about-immunisation/are-vaccines-safe#no-established-link-between-vaccines-and-autism|tựa đề=Are Vaccines Safe?|website=health.gov.au|nhà xuất bản=Australia Department of Health}}</ref> Một [[Tổng quan Cochrane|đánh giá của Cochrane]] kết luận rằng không có mối liên hệ đáng tin cậy nào giữa vắc-xin MMR và bệnh tự kỷ, rằng MMR đã ngăn ngừa được các bệnh vẫn mang lại gánh nặng tử vong và biến chứng, rằng sự thiếu tin tưởng vào MMR đã làm tổn hại sức khỏe cộng đồng, và rằng thiết kế và báo cáo về kết quả an toàn trong các nghiên cứu vắc xin MMR phần lớn là không đầy đủ.<ref name="pmid22336803">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Demicheli V, Rivetti A, Debalini MG, Di Pietrantonj C|date=February 2012|editor-last=Demicheli|editor-first=Vittorio|title=Vaccines for measles, mumps and rubella in children|journal=The Cochrane Database of Systematic Reviews|volume=2|issue=2|pages=CD004407|doi=10.1002/14651858.CD004407.pub3|pmc=6458016|pmid=22336803}}</ref> Các đánh giá bổ sung đồng ý với các nhận định trên, với các nghiên cứu phát hiện ra rằng vắc-xin không liên quan đến chứng tự kỷ ngay cả ở những quần thể có nguy cơ cao có anh chị em mắc chứng tự kỷ.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=DeStefano|first=Frank|last2=Shimabukuro|first2=Tom T.|date=2019-04-15|title=The MMR Vaccine and Autism|journal=Annual Review of Virology|volume=6|issue=1|pages=585–600|doi=10.1146/annurev-virology-092818-015515|issn=2327-0578|pmc=6768751|pmid=30986133}}</ref>


== Tác động của việc giảm tiêm chủng ==
== Tác động của việc giảm tiêm chủng ==

Phiên bản lúc 02:51, ngày 29 tháng 7 năm 2021

James Gillray, The Cow-Pock—or—the Wonderful Effects of the New Inoculation! (1802)

Tranh cãi về vắc-xin đã xuất hiện từ gần 80 năm trước khi các quy định pháp luật về vắc-xintiêm chủng được giới thiệu. Bất chấp sự đồng thuận khoa học cao[1][2][3] rằng vắc-xin an toàn và hiệu quả,[4] những lo ngại không có căn cứ về tính an toàn vẫn diễn ra, dẫn đến sự bùng phát và tử vong các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin.[5][6][7][8][9][10] Một nguồn gốc khác của cuộc tranh cãi là liệu tiêm chủng bắt buộc có vi phạm quyền tự do dân sự hay làm giảm niềm tin của công chúng vào tiêm chủng.[10][11][12]

Tính hiệu quả

Rubella giảm mạnh khi tiêm chủng phổ quát được giới thiệu, theo CDC.

Bằng chứng khoa học về tính hiệu quả của các chiến dịch tiêm chủng quy mô lớn được thiết lập vững chắc.[13] Các chiến dịch tiêm chủng đã thanh toán bệnh đậu mùa mà đã từng giết chết 1/7 trẻ emchâu Âu[14] và gần như đã loại bỏ được bệnh bại liệt. Một minh chứng khiêm tốn hơn, là các bệnh nhiễm trùng do Haemophilus influenzae, nguyên nhân chính gây viêm màng não do vi khuẩn và các bệnh nghiêm trọng khác ở trẻ em, đã giảm hơn 99% ở Mỹ kể từ khi vắc-xin được đưa vào năm 1988.[15] Người ta ước tính rằng tiêm chủng đầy đủ, từ lúc còn sơ sinh đến khi thiếu niên, tất cả trẻ em Hoa Kỳ sinh ra trong một năm nhất định nào đó sẽ có 33.000 người được cứu sống và ngăn ngừa được 14 triệu ca nhiễm trùng.[16]

Một số ý kiến phản bác lại cho rằng việc giảm các bệnh truyền nhiễm này là kết quả của việc cải thiện vệ sinh và điều kiện vệ sinh (chứ không phải tiêm chủng), hay những bệnh này đã bị suy giảm dần trước khi các loại vắc-xin cụ thể được giới thiệu. Những tuyên bố này không được hỗ trợ bởi dữ liệu khoa học; tỷ lệ mắc các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin có xu hướng dao động theo thời gian cho đến khi các loại vắc-xin cụ thể được đưa vào, thì tại thời điểm này, tỷ lệ này giảm xuống gần như bằng không. Trang web của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ đã đưa ra lập luận nhằm chống lại những nhận thức sai lầm phổ biến về vắc-xin rằng: ''Chúng tôi mong đợi sự tin tưởng cải thiện vệ sinh tốt hơn khiến tỷ lệ mắc từng bệnh giảm xuống, đúng vào thời điểm loại vắc-xin cho bệnh đó được giới thiệu?''[17]

Lời kêu gọi tập hợp khác của phong trào chống vắc-xin là kêu gọi các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, trong đó một nhóm trẻ em thử nghiệm được tiêm chủng trong khi nhóm đối chứng không được chủng ngừa. Một nghiên cứu như vậy sẽ không bao giờ được chấp thuận vì nó đòi hỏi phải cố ý từ chối việc chăm sóc y tế tiêu chuẩn cho trẻ em, khiến nghiên cứu này trở nên phi đạo đức. Các nghiên cứu đã được thực hiện để so sánh những người được tiêm chủng với những người chưa được tiêm chủng, nhưng các nghiên cứu này không phải là ngẫu nhiên. Hơn nữa, đã có một tài liệu chứng minh tính an toàn của vắc-xin bằng các phương pháp thử nghiệm khác.[18]

Các nhà chỉ trích khác biện luận khả năng miễn dịch được cung cấp bởi vắc-xin chỉ là tạm thời và đòi hỏi cần phải có thuốc tăng cường, trong khi những người còn sống sau mắc bệnh đã được miễn dịch vĩnh viễn.[10] Các triết lý của một số người hành nghề y học thay thế (“giải pháp thay thế thuốc”) không cùng ý tưởng vắc-xin có hiệu quả.[19]

Sức khỏe cộng đồng

Charlotte Cleverley-Bisman đã bị cắt cụt một phần của cả tứ chi khi mới 7 tháng tuổi do bệnh viêm não mô cầu.[20] Việc tiêm chủng rộng rãi hơn có thể bảo vệ những đứa trẻ như Cleverley-Bisman, những đứa trẻ còn quá nhỏ để tiêm phòng, khỏi mắc bệnh thông qua phát triển miễn dịch cộng đồng.[21]

Việc phổ cập vắc xin không đầy đủ làm tăng nguy cơ mắc bệnh cho toàn bộ dân số, bao gồm cả những người đã được tiêm vắc xin, vì nó làm giảm khả năng miễn dịch cộng đồng. Ví dụ, vắc-xin sởi được tiêm cho trẻ 9-12 tháng tuổi, và khoảng thời gian ngắn giữa sự biến mất của kháng thể mẹ (trước đó vắc-xin thường không chuyển đổi huyết thanh) và nhiễm trùng tự nhiên có nghĩa là trẻ được tiêm chủng thường xuyên vẫn dễ bị tổn thương. Khả năng miễn dịch cộng đồng sẽ giảm bớt tính dễ bị tổn thương này nếu tất cả trẻ em đều được tiêm chủng. Tăng khả năng miễn dịch cộng đồng trong thời kỳ bùng phát hoặc nguy cơ bùng phát có lẽ là cách biện minh được chấp nhận rộng rãi nhất cho việc tiêm phòng đại trà. Khi một loại vắc-xin mới được giới thiệu, việc tiêm chủng đại trà sẽ giúp tăng tỷ lệ bao phủ nhanh chóng.[22]

Nếu đủ lượng dân cư được tiêm phòng, thì khả năng miễn dịch cộng đồng sẽ có hiệu lực, làm giảm nguy cơ đối với những người không thể nhận vắc xin vì họ quá trẻ hoặc già, suy giảm miễn dịch hoặc dị ứng nghiêm trọng với các thành phần trong vắc xin.[23] Kết quả đối với những người có hệ thống miễn dịch bị tổn hại bị nhiễm bệnh thường tồi tệ hơn so với mặt bằng dân số chung.[24]

Hiệu quả chi phí

Các vắc xin thường được sử dụng có hiệu quả về chi phí và phòng ngừa để tăng cường sức khỏe, so với việc điều trị bệnh cấp tính hoặc mãn tính. Tại Hoa Kỳ trong năm 2001, việc chủng ngừa định kỳ cho trẻ em chống lại bảy bệnh được ước tính sẽ tiết kiệm hơn 40 tỷ đô la cho mỗi nhóm dân số năm sinh trong tổng chi phí xã hội, bao gồm 10 tỷ đô la chi phí y tế trực tiếp và tỷ lệ lợi ích xã hội trên chi phí tiêm chủng này được ước tính là được 16,5.[25]

Sự cần thiết

Khi một chương trình tiêm chủng làm giảm thành công mối đe dọa bệnh tật, nó có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh khi những ký ức văn hóa về ảnh hưởng của căn bệnh đó mờ đi. Lúc này, cha mẹ có thể cảm thấy mình không có gì để mất khi không tiêm phòng cho con.[26] Nếu có đủ số người hy vọng trở thành những người đi ké xe miễn phí, nhận được những lợi ích của miễn dịch cộng đồng mà không cần tiêm phòng, thì mức độ tiêm phòng có thể giảm xuống mức mà khả năng miễn dịch cộng đồng không còn hiệu quả.[27] Theo Jennifer Reich, những bậc cha mẹ tin rằng tiêm chủng là khá hiệu quả nhưng có thể thích con cái của họ vẫn chưa được tiêm chủng, là những người có nhiều khả năng bị thuyết phục để thay đổi quyết định của họ, miễn là họ được tiếp cận đúng cách.[28]

Tính an toàn

Trong khi một số nhà chống tiêm chủng công khai phủ nhận những cải thiện của việc tiêm chủng đối với sức khỏe cộng đồng hoặc tin vào các thuyết âm mưu,[29] việc viện dẫn những lo ngại về sự an toàn là phổ biến hơn nhiều.[30] Như với bất kỳ điều trị y tế nào, vẫn có nguy cơ tiềm tàng vắc-xin gây nên những biến chứng nghiêm trọng,[31] như phản ứng dị ứng nặng, nhưng không giống như hầu hết các can thiệp y tế khác, vắc-xin được cung cấp cho người khỏe mạnh và do đó, tiêu chuẩn về tính an toàn được kỳ vọng cao hơn.[32] Mặc dù những biến chứng nghiêm trọng do tiêm chủng có thể xảy ra, nhưng chúng cực kỳ hiếm gặp và ít phổ biến hơn rất nhiều so với các nguy cơ tương tự đến từ các bệnh tật mà vắc-xin ngăn ngừa.[17] Khi sự thành công của các chương trình tiêm chủng tăng lên và tỷ lệ mắc bệnh giảm đi, sự chú ý của công chúng chuyển hướng từ nguy cơ mắc bệnh sang nguy cơ tiêm chủng,[33] và điều này đang trở thành thách thức cho các cơ quan y tế trong việc duy trì sự ủng hộ của cộng đồng để tiến hành các chương trình tiêm chủng.[34]

Sự thành công vượt bậc của một số loại vắc xin đã làm cho một số bệnh trở nên hiếm gặp và do đó, điều này đã dẫn đến suy nghĩ heuristic sai lầm, trong việc cân nhắc rủi ro với lợi ích, giữa những người do dự không muốn tiêm vắc xin.[35] Một khi các bệnh như vậy (ví dụ, Haemophilus influenzae B) giảm tỷ lệ mắc bệnh, mọi người có thể không còn đánh giá được mức độ nghiêm trọng của bệnh do không thấy bệnh xuất hiện và trở nên tự mãn.[35] Việc thiếu kinh nghiệm bản thân đối với các bệnh này làm giảm nguy cơ nhận thức được và do đó làm giảm lợi ích nhận thức của việc chủng ngừa.[36] Ngược lại, một số bệnh nhất định (ví dụ, cúm) vẫn phổ biến đến mức những người do dự với vắc-xin nhầm tưởng rằng bệnh không đe dọa sức khỏe mặc dù có bằng chứng rõ ràng rằng bệnh cúm gây ra mối đe dọa đáng kể đối với sức khỏe con người.[35] Thiên vị thiếu sótthành kiến không xác nhận cũng góp phần vào sự do dự không muốn tiêm vắc xin.[35][37]

Mối quan tâm về tính an toàn tiêm chủng thường đi theo một khuôn mẫu. Đầu tiên, một số nhà điều tra xét rằng sự gia tăng tỷ lệ hiện hành tình trạng y tế hoặc không rõ nguyên nhân là tác dụng bất lợi do tiêm chủng mang lại. Nghiên cứu ban đầu và những nghiên cứu theo sau của cùng một nhóm có phương pháp nghiên cứu không thỏa đáng - điển hình là nghiên cứu loạt ca bệnh không được kiểm soát hoặc kiểm soát kém. Loan báo trước cáo buộc vắc-xin về tác dụng bất lợi, cộng hưởng với những cá nhân mắc bệnh, cùng với việc đánh giá quá thấp nguy cơ tiềm tàng của việc từ bỏ tiêm phòng cho những đối tượng mà vắc-xin có thể bảo vệ. Trong khi đó những nhóm khác thì cố gắng phỏng lại nghiên cứu ban đầu nhưng thất bại để thu về kết quả tương tự. Cuối cùng, phải mất nhiều năm để lấy lại niềm tin của công chúng về vắc-xin.[33][38] Các tác dụng bất lợi được gán kết cho vắc-xin thường không rõ nguồn gốc, tỷ lệ mắc ngày càng tăng, một số tính hợp lý sinh học, xảy ra gần với thời điểm tiêm chủng và kết quả kinh hoàng.[39] Trong gần như tất cả các trường hợp, tác động sức khỏe cộng đồng bị giới hạn bởi ranh giới của nhiều nền văn hóa khác nhau: Người nói tiếng Anh lo ngại về một loại vắc-xin gây ra bệnh tự kỷ, trong khi người nói tiếng Pháp lo ngại về một loại vắc-xin khác gây ra bệnh đa xơ cứng, và người Nigeria lại lo ngại rằng vắc-xin thứ ba gây nên vô sinh.[40]

Tự kỷ

Ý tưởng về mối liên hệ giữa vắc-xin và chứng tự kỷ đã được nghiên cứu rộng rãi và được kết luận là sai.[41][42] Sự đồng thuận về mặt khoa học là không có mối quan hệ, nhân quả hay cách nào khác, giữa vắc-xin và tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ,[43][44][45] và các thành phần vắc-xin không gây ra chứng tự kỷ.[46]

Tuy nhiên, phong trào chống tiêm chủng vẫn tiếp tục thúc đẩy những huyền thoại, thuyết âm mưu và thông tin sai lệch liên kết hai điều này.[47] Một chiến thuật đang phát triển dường như là "thúc đẩy nghiên cứu không liên quan [như] một tập hợp tích cực của một số nghiên cứu có liên quan hoặc có liên quan đến ngoại vi nhằm cố gắng biện minh cho khoa học làm cơ sở cho một tuyên bố đáng nghi vấn".[48]

Thiomersal

Thiomersal (được gọi là "thimerosal" ở Mỹ) là một chất bảo quản chống nấm được sử dụng với lượng nhỏ trong một số loại vắc xin đa liều (khi cùng một lọ được mở và sử dụng cho nhiều bệnh nhân) để ngăn ngừa nhiễm bẩn vắc xin. [49] Mặc dù hiệu quả của thiomersal, việc sử dụng thiomersal còn gây tranh cãi vì nó có thể bị chuyển hóa hoặc phân hủy trong cơ thể thành ethylmercury (C2H5Hg+) và thiosalicylate.[50][51] Kết quả là vào năm 1999, Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC) và Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) đã yêu cầu các nhà sản xuất vắc xin loại bỏ thiomersal khỏi vắc xin càng nhanh càng tốt theo nguyên tắc phòng ngừa. Thiomersal hiện không có mặt trong tất cả các loại vắc xin thông thường của Hoa Kỳ và Châu Âu, ngoại trừ một số chế phẩm của vắc xin cúm.[52] Lượng vết vẫn còn trong một số vắc xin do quá trình sản xuất, ở mức tối đa xấp xỉ một microgram, khoảng 15% lượng thủy ngân trung bình hàng ngày ở Hoa Kỳ đối với người lớn và 2,5% mức hàng ngày được WHO coi là có thể chấp nhận được.[51][53]

Hành động này làm dấy lên lo ngại rằng thiomersal có thể là nguyên nhân gây ra chứng tự kỷ.[52] Ý tưởng này hiện đang bị bác bỏ, vì tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ tăng đều đặn ngay cả sau khi loại bỏ thiomersal khỏi vắc-xin thời thơ ấu.[54] Hiện tại không có bằng chứng khoa học được chấp nhận rằng việc tiếp xúc với thiomersal là một yếu tố gây ra chứng tự kỷ.[55][56] Kể từ năm 2000, các bậc cha mẹ ở Hoa Kỳ đã theo đuổi một khoản bồi thường hợp pháp từ một quỹ liên bang với lập luận rằng thiomersal gây ra chứng tự kỷ ở con họ.[57] Một ủy ban năm 2004 của Viện Y học Hoa Kỳ (IOM) ủng hộ việc bác bỏ bất kỳ mối quan hệ nhân quả nào giữa vắc xin chứa thiomersal và chứng tự kỷ.[58] Nồng độ thiomersal được sử dụng trong vắc xin như một chất kháng khuẩn nằm trong khoảng từ 0,001% (1 phần trong 100.000) đến 0,01% (1 phần trong 10.000).[59] Một loại vắc-xin chứa 0,01% thiomersal có 25 microgam thủy ngân trên mỗi liều 0,5 mL, gần bằng lượng thủy ngân nguyên tố được tìm thấy trong một lon cá ngừ nặng 3 ounce.[59] Có bằng chứng khoa học được đánh giá ngang hàng mạnh mẽ ủng hộ sự an toàn của vắc xin có chứa thiomersal.[59]

Vắc xin MMR

Ở Anh, vắc-xin MMR là chủ đề gây tranh cãi sau khi công bố trên tạp chí The Lancet năm 1998 của Andrew Wakefield và những người khác báo cáo tiền sử trường hợp của mười hai trẻ em hầu hết mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ khởi phát ngay sau khi tiêm vắc-xin.[60] Tại một cuộc họp báo năm 1998, Wakefield gợi ý rằng tiêm cho trẻ em với ba liều riêng biệt sẽ an toàn hơn so với tiêm một mũi duy nhất. Đề xuất này không được bài báo ủng hộ và một số nghiên cứu được đánh giá ngang hàng sau đó đã không cho thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa vắc-xin và chứng tự kỷ.[61] Sau đó, có thông tin cho rằng Wakefield đã nhận được tài trợ từ các đương sự chống lại các nhà sản xuất vắc xin và anh đã không thông báo cho đồng nghiệp hoặc cơ quan y tế về xung đột lợi ích của mình.[62] Nếu điều này được biết đến, việc xuất bản trong The Lancet sẽ không diễn ra theo cách mà nó đã làm.[63] Wakefield đã bị chỉ trích nặng nề về cơ sở khoa học và đạo đức về cách thức nghiên cứu được tiến hành[64] và vì đã gây ra sự sụt giảm tỷ lệ tiêm chủng, khi tỷ lệ tiêm chủng ở Anh đã giảm xuống còn 80% trong những năm sau khi nghiên cứu này được xuất bản.[65][66] Năm 2004, bản giải thích MMR và chứng tự kỷ của bài báo đã được chính thức rút lại bởi mười trong số mười ba đồng tác giả của nó,[67] và vào năm 2010 các biên tập viên của The Lancet đã rút lại toàn bộ bài báo.[68] Wakefield đã bị loại khỏi sổ đăng ký y tế của Vương quốc Anh, với một tuyên bố xác định cố ý làm sai lệch trong nghiên cứu được đăng trên The Lancet,[69] và bị cấm hành nghề y tại Vương quốc Anh.[70]

CDC, IOM của Học viện Khoa học Quốc gia, Bộ Y tế Australia và Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh đều kết luận rằng không có bằng chứng về mối liên hệ giữa vắc-xin MMR và chứng tự kỷ.[71][72][73][74] Một đánh giá của Cochrane kết luận rằng không có mối liên hệ đáng tin cậy nào giữa vắc-xin MMR và bệnh tự kỷ, rằng MMR đã ngăn ngừa được các bệnh vẫn mang lại gánh nặng tử vong và biến chứng, rằng sự thiếu tin tưởng vào MMR đã làm tổn hại sức khỏe cộng đồng, và rằng thiết kế và báo cáo về kết quả an toàn trong các nghiên cứu vắc xin MMR phần lớn là không đầy đủ.[75] Các đánh giá bổ sung đồng ý với các nhận định trên, với các nghiên cứu phát hiện ra rằng vắc-xin không liên quan đến chứng tự kỷ ngay cả ở những quần thể có nguy cơ cao có anh chị em mắc chứng tự kỷ.[76]

Tác động của việc giảm tiêm chủng

Ở một số quốc gia, theo sau việc giảm tiêm phòng một số loại vắc-xin là sự tăng tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm và số ca tử vong. Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa kỳ, tiếp tục bao phủ vắc-xin ở mức độ cao là điều cần thiết để ngăn chặn sự hồi sinh của các bệnh mà đã gần như được loại bỏ.[77] Ho gà vẫn là một vấn đề sức khỏe làm đau đầu tại các nước đang phát triển, nơi không thực hiện tiêm chủng đại trà; Tổ chức Y tế Thế giới ước tính ho gà đã gây ra 294.000 ca tử vong vào năm 2002.[78]

Tham khảo

  1. ^ “Communicating science-based messages on vaccines”. Bulletin of the World Health Organization. 95 (10): 670–671. ngày 1 tháng 10 năm 2017. doi:10.2471/BLT.17.021017. ISSN 0042-9686. PMC 5689193. PMID 29147039.
  2. ^ “Why do some people oppose vaccination?”. Vox. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2018.
  3. ^ Ceccarelli, Leah. “Defending science: How the art of rhetoric can help”. The Conversation (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2018.
  4. ^ Services, U.S. Department of Health and Human. “Vaccines.gov”. www.vaccines.gov (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2018.
  5. ^ “Frequently Asked Questions (FAQ)”. Boston Children's Hospital. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2014.
  6. ^ Phadke, Varun K.; Bednarczyk, Robert A.; Salmon, Daniel A.; Omer, Saad B. (ngày 15 tháng 3 năm 2016). “Association Between Vaccine Refusal and Vaccine-Preventable Diseases in the United States”. JAMA. 315 (11): 1149–1158. doi:10.1001/jama.2016.1353. PMC 5007135. PMID 26978210.
  7. ^ Poland GA, Jacobson RM (ngày 13 tháng 1 năm 2011). “The Age-Old Struggle against the Antivaccinationists”. N Engl J Med. 364 (2): 97–99. doi:10.1056/NEJMp1010594. PMID 21226573.
  8. ^ Wallace A (ngày 19 tháng 10 năm 2009). “An epidemic of fear: how panicked parents skipping shots endangers us all”. Wired. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2009.
  9. ^ Poland G, Jacobson R (2001). “Understanding those who do not understand: a brief review of the anti-vaccine movement”. Vaccine. 19 (17–19): 2440–2445. doi:10.1016/S0264-410X(00)00469-2. PMID 11257375.
  10. ^ a b c Wolfe R, Sharp L (2002). “Anti-vaccinationists past and present”. BMJ. 325 (7361): 430–432. doi:10.1136/bmj.325.7361.430. PMC 1123944. PMID 12193361.
  11. ^ Chang, Julie (ngày 12 tháng 7 năm 2017). 'Civil liberties' at center of vaccination debate in Texas”. myStatesman. Austin American-Statesman.
  12. ^ Elliman, David; Bedford, Helen (ngày 23 tháng 3 năm 2014). “In Britain, Vaccinate With Persuasion, not Coercion”. The New York Times.
  13. ^ Christenson, Brith; Lundbergh, Per; Hedlund, Jonas; Örtqvist, Åke (ngày 31 tháng 3 năm 2001). “Effects of a large-scale intervention with influenza and 23-valent pneumococcal vaccines in adults aged 65 years or older: a prospective study”. The Lancet (bằng tiếng Anh). 357 (9261): 1008–1011. doi:10.1016/S0140-6736(00)04237-9. PMID 11293594.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  14. ^ Fenner F, Henderson DA, Arita I, Ježek Z, Ladnyi, ID (1988). Smallpox and its Eradication (PDF). Geneva: World Health Organization. ISBN 978-92-4-156110-5. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)CS1 maint: Multiple names: authors list (link) Fenner F, Henderson DA, Arita I, Ježek Z, Ladnyi, ID (1988). Smallpox and its Eradication (PDF). Geneva: World Health Organization. ISBN 978-92-4-156110-5. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  15. ^ Centers for Disease Control and Prevention (CDC) (2002). “Progress toward elimination of Haemophilus influenzae type b invasive disease among infants and children—United States, 1998–2000”. MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 51 (11): 234–7. PMID 11925021.
  16. ^ Park A (ngày 21 tháng 5 năm 2008). “How safe are vaccines?”. Time.
  17. ^ a b “Some common misconceptions about vaccination and how to respond to them”. National Center for Immunization and Respiratory Diseases, Centers for Disease Control and Prevention. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2012.
  18. ^ Novella, Steven, et al. The Skeptics' Guide to the Universe: How to Know What's Really Real in a World Increasingly Full of Fake. Grand Central Publishing, 2018. p. 185.
  19. ^ Ernst E (2001). “Rise in popularity of complementary and alternative medicine: reasons and consequences for vaccination”. Vaccine. 20 (Suppl 1): S89–93. doi:10.1016/S0264-410X(01)00290-0. PMID 11587822.
  20. ^ Wane, Joanna. “The case for vaccination” (PDF). North & South. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2015.
  21. ^ Fine, P.; Eames, K.; Heymann, D. L. (22 tháng 3 năm 2011). 'Herd Immunity': A Rough Guide”. Clinical Infectious Diseases. 52 (7): 911–16. doi:10.1093/cid/cir007. PMID 21427399.
  22. ^ Heymann, D. L.; Aylward, R. B. (2006). “Mass Vaccination: When and Why”. Mass Vaccination: Global Aspects – Progress and Obstacles. Current Topics in Microbiology and Immunology. 304. tr. 1–16. doi:10.1007/3-540-36583-4_1. ISBN 978-3-540-29382-8. PMID 16989261.
  23. ^ Bester JC (tháng 9 năm 2017). “Measles Vaccination is Best for Children: The Argument for Relying on Herd Immunity Fails”. Journal of Bioethical Inquiry. 14 (3): 375–84. doi:10.1007/s11673-017-9799-4. PMID 28815434.
  24. ^ “Immunization”. CDC. 30 tháng 8 năm 2018.
  25. ^ Zhou F, Santoli J, Messonnier ML, Yusuf HR, Shefer A, Chu SY, Rodewald L, Harpaz R (tháng 12 năm 2005). “Economic evaluation of the 7-vaccine routine childhood immunization schedule in the United States, 2001”. Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine. 159 (12): 1136–44. doi:10.1001/archpedi.159.12.1136. PMID 16330737.
  26. ^ Fine PE, Clarkson JA (tháng 12 năm 1986). “Individual versus public priorities in the determination of optimal vaccination policies”. American Journal of Epidemiology. 124 (6): 1012–20. doi:10.1093/oxfordjournals.aje.a114471. PMID 3096132.
  27. ^ Buttenheim AM, Asch DA (tháng 12 năm 2013). “Making vaccine refusal less of a free ride”. Human Vaccines & Immunotherapeutics. 9 (12): 2674–75. doi:10.4161/hv.26676. PMC 4162060. PMID 24088616.
  28. ^ Reich, Jennifer (13 tháng 6 năm 2019). “I've talked to dozens of parents about why they don't vaccinate. Here's what they told me”. Vox. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2019.
  29. ^ Wolfe RM, Sharp LK (tháng 8 năm 2002). “Anti-vaccinationists past and present”. BMJ. 325 (7361): 430–32. doi:10.1136/bmj.325.7361.430. PMC 1123944. PMID 12193361.
  30. ^ The Lancet Infectious Diseases (tháng 4 năm 2007). “Tackling negative perceptions towards vaccination”. The Lancet Infectious Diseases. 7 (4): 235. doi:10.1016/S1473-3099(07)70057-9. PMID 17376373.
  31. ^ “Possible Side-effects from Vaccines”. Centers for Disease Control and Prevention. ngày 26 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2014.
  32. ^ Chen, Robert T.; Hibbs, Beth (tháng 7 năm 1998). “Vaccine Safety: Current and Future Challenges”. Pediatric Annals. 27 (7). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2014.
  33. ^ a b Bonhoeffer J, Heininger U (2007). “Adverse events following immunization: perception and evidence” (PDF). Current Opinion in Infectious Diseases. 20 (3): 237–246. doi:10.1097/QCO.0b013e32811ebfb0. PMID 17471032.
  34. ^ Mooney C (tháng 6 năm 2009). “Why does the vaccine/autism controversy live on?”. Discover.
  35. ^ a b c d Jacobson, RM; St Sauver, JL; Finney Rutten, LJ (tháng 11 năm 2015). “Vaccine Hesitancy”. Mayo Clinic Proceedings. 90 (11): 1562–68. doi:10.1016/j.mayocp.2015.09.006. PMID 26541249.
  36. ^ Marshall, GS (2013). “Roots of vaccine hesitancy”. S D Med. Spec no: 52–57. PMID 23444592.
  37. ^ McClure, CC; Cataldi, JR; O'Leary, ST (tháng 8 năm 2017). “Vaccine Hesitancy: Where We Are and Where We Are Going”. Clinical Therapeutics. 39 (8): 1550–62. doi:10.1016/j.clinthera.2017.07.003. PMID 28774498.
  38. ^ Boseley, Sarah (ngày 2 tháng 2 năm 2010). “Lancet retracts 'utterly false' MMR paper”. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2010.
  39. ^ Leask J, Chapman S, Cooper Robbins SC. 'All manner of ills': The features of serious diseases attributed to vaccination. Vaccine. 2009. doi:10.1016/j.vaccine.2009.10.042. PMID 19879997.
  40. ^ Goldacre, Ben (2009). Bad Science. London: Fourth Estate. tr. 292–294. ISBN 9780007284870.
  41. ^ Taylor, Luke E.; Swerdfeger, Amy L.; Eslick, Guy D. (17 tháng 6 năm 2014). “Vaccines are not associated with autism: an evidence-based meta-analysis of case-control and cohort studies”. Vaccine. 32 (29): 3623–29. doi:10.1016/j.vaccine.2014.04.085. ISSN 1873-2518. PMID 24814559.
  42. ^ Smith, IM; MacDonald, NE (tháng 8 năm 2017). “Countering evidence denial and the promotion of pseudoscience in autism spectrum disorder”. Autism Research (Review). 10 (8): 1334–37. doi:10.1002/aur.1810. PMID 28544626.
  43. ^ Bonhoeffer, Jan; Heininger, Ulrich (tháng 6 năm 2007). “Adverse events following immunization: perception and evidence”. Current Opinion in Infectious Diseases. 20 (3): 237–46. doi:10.1097/QCO.0b013e32811ebfb0. PMID 17471032.
  44. ^ Boseley, Sarah (2 tháng 2 năm 2010). “Lancet retracts 'utterly false' MMR paper”. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2010.
  45. ^ Taylor LE, Swerdfeger AL, Eslick GD (tháng 6 năm 2014). “Vaccines are not associated with autism: an evidence-based meta-analysis of case-control and cohort studies”. Vaccine. 32 (29): 3623–29. doi:10.1016/j.vaccine.2014.04.085. PMID 24814559.
  46. ^ “Vaccines Do Not Cause Autism Concerns”. Centers for Disease Control and Prevention (bằng tiếng Anh). 12 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2019.
  47. ^ “How autism myths came to fuel anti-vaccination movements”. Popular Science (bằng tiếng Anh). tháng 2 năm 2019.
  48. ^ Foster, Craig A.; Ortiz, Sarenna M. (2017). “Vaccines, Autism, and the Promotion of Irrelevant Research: A Science-Pseudoscience Analysis”. Skeptical Inquirer. 41 (3): 44–48. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2018.
  49. ^ Baker JP (tháng 2 năm 2008). “Mercury, vaccines, and autism: one controversy, three histories”. American Journal of Public Health. 98 (2): 244–53. doi:10.2105/AJPH.2007.113159. PMC 2376879. PMID 18172138.
  50. ^ “Thimerosal in vaccines”. Center for Biologics Evaluation and Research, U.S. Food and Drug Administration. 3 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2008.
  51. ^ a b Center for Biologics Evaluation and Research (5 tháng 4 năm 2019). “Thimerosal and Vaccines”. FDA. fda.gov.
  52. ^ a b Offit PA (tháng 9 năm 2007). “Thimerosal and vaccines – a cautionary tale”. The New England Journal of Medicine. 357 (13): 1278–79. doi:10.1056/NEJMp078187. PMID 17898096.
  53. ^ Bose-O'Reilly S, McCarty KM, Steckling N, Lettmeier B (tháng 9 năm 2010). “Mercury exposure and children's health”. Current Problems in Pediatric and Adolescent Health Care. 40 (8): 186–215. doi:10.1016/j.cppeds.2010.07.002. PMC 3096006. PMID 20816346.
  54. ^ Gerber JS, Offit PA (tháng 2 năm 2009). “Vaccines and autism: a tale of shifting hypotheses”. Clinical Infectious Diseases. 48 (4): 456–61. doi:10.1086/596476. PMC 2908388. PMID 19128068. Tóm lược dễ hiểuIDSA (30 tháng 1 năm 2009).
  55. ^ Doja A, Roberts W (tháng 11 năm 2006). “Immunizations and autism: a review of the literature”. The Canadian Journal of Neurological Sciences. 33 (4): 341–46. doi:10.1017/s031716710000528x. PMID 17168158.
  56. ^ Spencer, JP; Trondsen Pawlowski, RH; Thomas, S (tháng 6 năm 2017). “Vaccine Adverse Events: Separating Myth from Reality”. American Family Physician. 95 (12): 786–94. PMID 28671426.
  57. ^ Sugarman SD (tháng 9 năm 2007). “Cases in vaccine court – legal battles over vaccines and autism”. The New England Journal of Medicine. 357 (13): 1275–77. doi:10.1056/NEJMp078168. PMID 17898095.
  58. ^ Immunization Safety Review Committee (2004). Immunization Safety Review: Vaccines and Autism. The National Academies Press. doi:10.17226/10997. ISBN 978-0-309-09237-1. PMID 20669467.
  59. ^ a b c “Thimerosal and Vaccines”. fda.gov. U.S. Food and Drug Administration. 5 tháng 4 năm 2019.
  60. ^ Wakefield AJ, Murch SH, Anthony A, Linnell J, Casson DM, Malik M, Berelowitz M, Dhillon AP, Thomson MA, Harvey P, Valentine A, Davies SE, Walker-Smith JA (tháng 2 năm 1998). “Ileal-lymphoid-nodular hyperplasia, non-specific colitis, and pervasive developmental disorder in children”. Lancet. 351 (9103): 637–41. doi:10.1016/S0140-6736(97)11096-0. PMID 9500320. (Đã rút lại. Nếu đây là trích dẫn cố ý tới bài viết đã rút lại, đề nghị thay thế {{Retracted}} bằng {{Retracted|intentional=yes}}.)
  61. ^ National Health Service (2015). “MMR vaccine”. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  62. ^ Deer B (22 tháng 2 năm 2004). “Revealed: MMR research scandal”. The Sunday Times. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007.
  63. ^ Horton R (tháng 3 năm 2004). “The lessons of MMR”. Lancet. 363 (9411): 747–49. doi:10.1016/S0140-6736(04)15714-0. PMID 15016482.
  64. ^ “MMR scare doctor 'paid children'. BBC News. 16 tháng 7 năm 2007.
  65. ^ “Doctors issue plea over MMR jab”. BBC News. 26 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2007.
  66. ^ Alazraki M (12 tháng 1 năm 2011). “The Autism Vaccine Fraud: Dr. Wakefield's Costly Lie to Society”. DailyFinance, AOL Money & Finance. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2011.
  67. ^ Murch SH, Anthony A, Casson DH, Malik M, Berelowitz M, Dhillon AP, Thomson MA, Valentine A, Davies SE, Walker-Smith JA (tháng 3 năm 2004). “Retraction of an interpretation”. Lancet. 363 (9411): 750. doi:10.1016/S0140-6736(04)15715-2. PMID 15016483.
  68. ^ The Editors Of The Lancet (tháng 2 năm 2010). “Retraction – Ileal-lymphoid-nodular hyperplasia, non-specific colitis, and pervasive developmental disorder in children”. Lancet. 375 (9713): 445. doi:10.1016/S0140-6736(10)60175-4. PMID 20137807. Tóm lược dễ hiểuBBC News (2 tháng 2 năm 2010).
  69. ^ “General Medical Council, Fitness to Practise Panel Hearing, 24 May 2010, Andrew Wakefield, Determination of Serious Professional Misconduct” (PDF). General Medical Council. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  70. ^ Meikle, James; Boseley, Sarah (24 tháng 5 năm 2010). “MMR row doctor Andrew Wakefield struck off register”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  71. ^ Immunization Safety Review Committee (2004). Immunization Safety Review: Vaccines and Autism. The National Academies Press. doi:10.17226/10997. ISBN 978-0-309-09237-1. PMID 20669467.
  72. ^ “Concerns about autism”. Centers for Disease Control and Prevention. 15 tháng 1 năm 2010.
  73. ^ “MMR The facts”. United Kingdom National Health Service. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2007.
  74. ^ “Are Vaccines Safe?”. health.gov.au. Australia Department of Health.
  75. ^ Demicheli V, Rivetti A, Debalini MG, Di Pietrantonj C (tháng 2 năm 2012). Demicheli V (biên tập). “Vaccines for measles, mumps and rubella in children”. The Cochrane Database of Systematic Reviews. 2 (2): CD004407. doi:10.1002/14651858.CD004407.pub3. PMC 6458016. PMID 22336803.
  76. ^ DeStefano, Frank; Shimabukuro, Tom T. (15 tháng 4 năm 2019). “The MMR Vaccine and Autism”. Annual Review of Virology. 6 (1): 585–600. doi:10.1146/annurev-virology-092818-015515. ISSN 2327-0578. PMC 6768751. PMID 30986133.
  77. ^ “What would happen if we stopped vaccinations?”. Centers for Disease Control and Prevention. ngày 12 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2008.
  78. ^ Centers for Disease Control and Prevention (2007). “Pertussis”. Trong Atkinson W, Hamborsky J, McIntyre L, Wolfe S (biên tập). Epidemiology and Prevention of Vaccine-Preventable Diseases. Washington, DC: Public Health Foundation. ISBN 978-0-01-706605-3. Đã bỏ qua tham số không rõ |chapterurl= (trợ giúp)

Đọc thêm

Liên kết ngoài