Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người hiện đại châu Âu sơ khai”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 17: Dòng 17:
Văn hóa Aurignac từng bước một bị thế chỗ bởi văn hóa Gravette, song ta chưa rõ văn hóa Aurignac tuyệt diệt khi nào bởi vì định nghĩa của nó còn mơ hồ. Các công cụ "Aurignacoid" (có dạng thù Aurignac) hoặc "Epi-Aurignac" đã được xác định là tồn tại cho đến khoảng 18-15 nghìn năm trước.<ref name=Gambier2002>{{cite journal|first=D.|last=Henry-Gambier|year=2002|title=The Cro-Magnon Human Remains (Les Eyzies-de-Tayac, Dordogne): New information on their chronological position and cultural attribution|journal=Bulletins et mémoires de la Sociétéd'Anthropologie de Paris|volume=14|issue=1–2|url= http://journals.openedition.org/bmsap/459}}</ref> Hơn nữa ta cũng còn chưa rõ văn hóa Gravette bắt nguồn từ đâu, bởi lẽ nó khá khác biệt so với văn hóa Aurignic (do đó nên có khả năng chúng không có quan hệ trực hệ).<ref name=Svoboda2007/> Dẫu vậy, bằng chứng di truyền cho thấy dòng dõi Aurignac đã hoàn toàn tuyệt nòi.<ref name=Fu2016/> Các giả thuyết về sự nở rộ của văn hóa Gravette bao gồm sự chuyển biến ở Trung Âu từ văn hóa Szeleta (phát triển từ văn hóa Bohunician) tồn tại từ 41-37 nghìn năm trước; hoặc từ văn hóa Ahmar hoặc các nền văn hóa tương tự tồn tại ở [[Cận Đông]] hoặc [[dãy Kavkaz]] trước thời điểm 40.000 năm trước.<ref name=Svoboda2007>{{cite journal|first=J.|last=Svoboda|year=2007|title=The Gravettian on the Middle Danube|journal=Paleo|issue=19|pages=204|doi=10.4000/paleo.607|doi-access=free}}</ref>
Văn hóa Aurignac từng bước một bị thế chỗ bởi văn hóa Gravette, song ta chưa rõ văn hóa Aurignac tuyệt diệt khi nào bởi vì định nghĩa của nó còn mơ hồ. Các công cụ "Aurignacoid" (có dạng thù Aurignac) hoặc "Epi-Aurignac" đã được xác định là tồn tại cho đến khoảng 18-15 nghìn năm trước.<ref name=Gambier2002>{{cite journal|first=D.|last=Henry-Gambier|year=2002|title=The Cro-Magnon Human Remains (Les Eyzies-de-Tayac, Dordogne): New information on their chronological position and cultural attribution|journal=Bulletins et mémoires de la Sociétéd'Anthropologie de Paris|volume=14|issue=1–2|url= http://journals.openedition.org/bmsap/459}}</ref> Hơn nữa ta cũng còn chưa rõ văn hóa Gravette bắt nguồn từ đâu, bởi lẽ nó khá khác biệt so với văn hóa Aurignic (do đó nên có khả năng chúng không có quan hệ trực hệ).<ref name=Svoboda2007/> Dẫu vậy, bằng chứng di truyền cho thấy dòng dõi Aurignac đã hoàn toàn tuyệt nòi.<ref name=Fu2016/> Các giả thuyết về sự nở rộ của văn hóa Gravette bao gồm sự chuyển biến ở Trung Âu từ văn hóa Szeleta (phát triển từ văn hóa Bohunician) tồn tại từ 41-37 nghìn năm trước; hoặc từ văn hóa Ahmar hoặc các nền văn hóa tương tự tồn tại ở [[Cận Đông]] hoặc [[dãy Kavkaz]] trước thời điểm 40.000 năm trước.<ref name=Svoboda2007>{{cite journal|first=J.|last=Svoboda|year=2007|title=The Gravettian on the Middle Danube|journal=Paleo|issue=19|pages=204|doi=10.4000/paleo.607|doi-access=free}}</ref>


==Sinh học==
== Đặc tính về thể chất ==
===Đặc tính thể chất===
So với con người hiện đang sống, người Cro-Magnon có cơ thể lực lưỡng hơn và họp sọ lớn hơn.<ref name="Britannica online">{{cite encyclopedia|encyclopedia=Encyclopædia Britannica Online|title=Cro-Magnon|access-date=10-2010|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/143532/Cro-Magnon|author1=<Please add first missing authors to populate metadata.>|archive-date=2012-06-20|archive-url=https://web.archive.org/web/20120620024759/http://www.britannica.com/EBchecked/topic/143532/Cro-Magnon|url-status=dead}}</ref> Người Cro-Magnon có gương mặt rộng, mũi nhô ra và không bị hô hay hô rất ít, tương tự như các dân tộc hiện sống ở châu Âu.<ref name="Velemínskáa08">{{chú thích tạp chí |author=Velemínskáa, J., Brůžekb, J., Velemínskýd, P., Bigonia, L., Šefčákováe, A., Katinaf, F. |title=Variability of the Upper Palaeolithic skulls from Předmostí near Přerov (Czech Republic): Craniometric comparison with recent human standards |journal=Homo |volume=59 |issue=1 |pages=1–26 |year=2008 |url=http://www.sciencedirect.com/science?_ob=ArticleURL&_udi=B7GW4-4RR834V-1&_user=10&_rdoc=1&_fmt=&_orig=search&_sort=d&view=c&_version=1&_urlVersion=0&_userid=10&md5=a3ee8e3893220aa81844e5ea9b9dad2a |doi=10.1016/j.jchb.2007.12.003 |pmid=18242606 |access-date=2012-08-15 |archive-date=2012-12-08 |archive-url=https://archive.today/20121208155342/http://www.sciencedirect.com/science?_ob=ArticleURL&_udi=B7GW4-4RR834V-1&_user=10&_rdoc=1&_fmt=&_orig=search&_sort=d&view=c&_version=1&_urlVersion=0&_userid=10&md5=a3ee8e3893220aa81844e5ea9b9dad2a }}</ref> Một điểm đặc biệt là hố mắt họ hình chữ nhật.<ref name="mos">Human Evolution: Interpreting Evidence [http://www.mos.org/evolution/fossils/fossilview.php?fid=55 Cro-Magnon 1] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110927140456/http://www.mos.org/evolution/fossils/fossilview.php?fid=55 |date=2011-09-27 }}, from Museum of Science</ref>
[[File:Abri Pataud - Protomagdalenian woman skull - 20090922.jpg|thumb|Sọ của người phụ nữ [[Abri Pataud]]]]
Thể tích nội sọ trung bình của 28 mẫu vật người hiện đại trong khoảng 190-25 nghìn năm trước được ước tính là {{cvt|1478|cc}}, và đối với mẫu hẹp hơn gồm 13 cá thể thì thể tích nội sọ trung bình là {{cvt|1514|cc}}. Để đối chiếu, theo một ước tính, thể tích sọ trung bình của người ngày nay là {{cvt|1350|cc}}, rõ ràng nhỏ hơn. Sở dĩ có điều này là bởi não EEMH, tuy vẫn nằm trong phạm vi khả dĩ của não người ngày nay, có chiều dài [[thùy trán]] trung bình lớn hơn và [[thùy chẩm]] ở vị trí cao hơn. Tuy nhiên, [[thùy đỉnh]] của EEMH lại khá ngắn. Không rõ liệu đặc điểm này có tạo nên sự khác biệt hành vi giữa người hiện đại thời đó và người hiện đại ngày nay hay không.<ref>{{cite journal|first1=A.|last1=Balzeau|first2=D.|last2=Grimaud-Hervé|first3=F.|last3=Detroit|first4=R. L.|last4=Holloway|author4-link=Ralph Holloway|year=2013|title=First description of the Cro-Magnon 1 endocast and study of brain variation and evolution in anatomically modern ''Homo sapiens''|journal=Bulletins et Mémoires de la Société d anthropologie de Paris|volume=25|issue=1–2|pages=11–12|doi=10.1007/s13219-012-0069-z|s2cid=14675512|url=https://www.researchgate.net/publication/257799835}}</ref>


Về mặt thể chất, người EEMH giống người ngày nay ở nhiều bình diện: hộp sọ hình cầu, khuôn mặt dẹt, gờ lông mày mảnh dẻ, và cằm nổi rõ. Tuy vậy, xương EEMH dày và khỏe hơn.<ref>{{cite journal|first=D. E.|last=Lieberman|year=1998|title=Sphenoid shortening and the evolution of modern human cranial shape|journal=Nature|volume=393|issue=6681|pages=158–162|doi=10.1038/30227|pmid=9603517|bibcode=1998Natur.393..158L|s2cid=4409749}}</ref> Những EEMH sớm nhất thường sở hữu các đặc điểm giống [[người Neanderthal]].<ref>{{cite book|first1=W. A.|last1=Haviland|first2=H. E L.|last2=Prins|first3=D.|last3=Walrath|first4=B.|last4=McBride|year=2010|title=Anthropology: The Human Challenge|url=https://books.google.com/books?id=LJ2DCgAAQBAJ&pg=PA204|publisher=Cengage Learning|pages=204–205, 212|isbn=978-0-495-81084-1}} tr. 204-205: "Conversely, the earliest anatomically modern human skulls from Europe often exhibit features reminiscent of Neanderthals (see Chapter 7). In addition, some typical Neanderthal features are found in diverse living populations such as Bushmen from Southern Africa, Finns and Saami from Scandinavia, and aborigines from Australia." <br/>["Trái lại, sọ người hiện đại về mặt giải phẫu sớm nhất tại châu Âu thường biểu hiện các đặc điểm giống người Neanderthal (xem Chap 7). Hơn nữa, một số đặc điểm Neanderthal điển hình có thể được tìm thất ở nhiều quần thể còn sống ngày nay như người Bushmen ở Nam Phi, người Phần Lan và người Saami ở Scandinavia, và thổ dân ở Úc."] </ref> Cụ thể, [[Văn hóa Aurignac|tộc Aurignac]] thể hiện nhiều tính trạng giống người Neanderthal nhất, ví dụ như chỏm sọ hơi bẹt và [[búi chẩm]] trồi ra phía sau sọ (đôi khi khá nổi bật). Các đặc điểm này ở tộc Gravette có tần suất ít đi hẳn. Trong chuyên luận hình thái học năm 2007 của mình, nhà cổ nhân học [[Erik Trinkaus]] kết luận rằng những đặc điểm như thế là kết quả của sự xâm nhập gen Neanderthal, rốt cuộc đã bị chắt lọc khỏi vốn gen của người hiện đại.<ref>{{cite journal|first=E.|last=Trinkaus|year=2007|title=European early modern humans and the fate of the Neandertals|journal=Proceedings of the National Academy of Sciences|volume=104|issue=18|pages=7367–7372|doi=10.1073/pnas.0702214104|pmid=17452632|pmc=1863481|bibcode=2007PNAS..104.7367T|doi-access=free}}</ref>
Những nghiên cứu về di truyền học, loại máu của họ và hình dạng xương sọ của họ cho người ta kết luận rằng họ có thể là [[người Basque]] là con cháu một phần của người Cro-Magnon nguyên thủy.<ref name="The History and Geography of Human Genes">{{chú thích sách |author1=Cavalli-Sforza, L. Luca |author2=Menozzi, Paolo |author3=Alberto, Piazza |title=The History and Geography of Human Genes |url=https://archive.org/details/historygeography0000cava_g9l7 |publisher=Princeton University Press |location=Princeton NJ |year=1994 |page=[https://archive.org/details/historygeography0000cava_g9l7/page/280 280] |author-link=Luigi Luca Cavalli-Sforza }}</ref> Một nghiên cứu về DNA người Basque năm 2006 cho thấy một phần trăm sự xuất hiện của [[Haplogroup U (mtDNA)#Haplogroup U8|mtDNA haplogroup U8a]] đã là định tuổi từ thời người Cro-Magnon, nhưng các tác giả cho rằng sự xảy ra của nguồn ngốc tổ tiên này quá thấp để có thể cho rằng người Basque là một thí dụ đáng tin cậy về hình dạng bề ngoài của người Cro-Magnon.<ref name="The mitochondrial lineage U8a reveals a Paleolithic settlement in the Basque country">{{cite |title=The mitochondrial lineage U8a reveals a Paleolithic settlement in the Basque country |url=http://www.biomedcentral.com/content/pdf/1471-2164-7-124.pdf|first=Ana|last=Gonzalez |year=2006 |page=4 |doi=10.1186/1471-2164-7-124}}</ref>


[[File:Homo sapiens sapiens, Oase, Rumänien (Daniela Hitzemann).jpg|thumb|left|Phục dựng chân dung mẫu vật [[Oase 2]] đã 40.000 năm tuổi.<br/>(cá nhân này không có quan hệ huyết thống với bất kỳ một người còn sống nào)<ref name="fu"/>]]
Phân tích dùng [[DNA ti thể]] cho thấy người Cro-Magnon là một nhóm chị em - có liên quan đến - với các nhóm ("[[Đại chủng Á]]"). Hai nhóm này bắt đầu đi hai hướng khác nhau khoảng 50.000 năm trước đây.<ref name="Maca01">{{chú thích tạp chí |author=Maca-Meyer N, González AM, Larruga JM, Flores C, Cabrera VM |title=Major genomic mitochondrial lineages delineate early human expansions |journal=BMC Genet. |volume=2 }}</ref> Da màu sáng đã bắt đầu tiến hóa theo 2 hướng khác nhau trong nhóm người ở châu Á và châu Âu,<ref name="Genetic evidence for the convergent evolution of the very light skin found in Northern Europeans and some East Asians">{{chú thích tạp chí |author=Norton HL |title=Genetic evidence for the convergent evolution of the very light skin found in Northern Europeans and some East Asians |journal=Mol. Biol. Evol. |volume=24 |issue=3 |pages=710–22 |year=2007 |pmid=17182896 |doi=10.1093/molbev/msl203 |url=http://mbe.oxfordjournals.org/cgi/content/full/24/3/710 |author2=Kittles RA |author3=Parra E |display-authors=3 |last4=McKeigue |first4=P. |last5=Mao |first5=X. |last6=Cheng |first6=K. |last7=Canfield |first7=V. A. |last8=Bradley |first8=D. G. |last9=McEvoy |first9=B.}}</ref> và rất có thể đã xuất hiện trong nhóm châu Âu chỉ khoảng 6.000 năm trước đây,<ref name="pmid17446367">{{chú thích tạp chí | author = Gibbons A | title = American Association of Physical Anthropologists meeting. European skin turned pale only recently, gene suggests | journal = Science | volume = 316 | issue = 5823 | page = 364 | year = 2007 | pmid = 17446367 | doi = 10.1126/science.316.5823.364a | url = http://img46.imageshack.us/img46/4784/eurospaleonlyrecentlypu0.jpg | issn = }}</ref> điều này gợi ý rằng người Cro-Magnon da hơi nâu và rám nắng.<ref name="The Paleo-Etiology of Human Skin Tone">{{chú thích web|year=2002|first=Frank W.|last=Sweet|url=http://www.backintyme.com/Essay021215.htm|title=The Paleo-Etiology of Human Skin Tone|ngày truy cập=2012-08-15|archive-date = ngày 19 tháng 8 năm 2006 |archive-url=https://web.archive.org/web/20060819134341/http://backintyme.com/essay021215.htm|url-status=dead}}</ref>
Một pho tượng nhỏ bằng ngà tìm thấy ở [[Dolní Věstonice]] khoảng 26.000 năm trước cho thấy người Cro-Magnon có tóc thẳng nhưng pho tượng [[Vệ nữ Brassempouy]] cho thấy tóc họ quăn và hơi lượn sóng.


==Chú thích==
==Chú thích==

Phiên bản lúc 06:45, ngày 26 tháng 1 năm 2023

Hộp sọ Cro-Magnon 1 của một cá nhân già lão

Người hiện đại châu Âu sơ khai (tiếng Anh: Early European modern humans; viết tắt là EEMH), hay người Cro-Magnon (phiên âm tiếng Việt: Crômanhôn hay Crô-manhông), là các quần thể người hiện đại sơ khai (Homo sapiens) đầu tiên đặt chân đến châu Âu, bắt nguồn từ Tây Á, sinh sống liên tục tại châu Âu sớm nhất từ khoảng 56.800 năm trước đây. Họ đã tiếp xúc và giao phối với các quần thể Neanderthal bản địa (H. neanderthalensis) của châu Âu và Tây Á, loài mà về sau tuyệt chủng vào khoảng 40.000 đến 35.000 năm trước. Tất cả người EEHM kể từ thời điểm 37.000 năm trước trở đi đều là hậu duệ của một quần thể sáng lập duy nhất, có đóng góp thành phần di truyền cho người châu Âu hiện đại. Người EEMH là chủ nhân của nhiều nền văn hóa hậu kỳ đá cũ, quan trọng nhất trong số đó là văn hóa Aurignac, được tiếp nối bởi văn hóa Gravette vào khoảng 30.000 năm trước. Do biến đổi khí hậu trong giai đoạn Cực đại băng hà cuối cùng (LGM), văn hóa Gravette chia tách tiếp thành hai nền văn hóa là Epi-Gravette ở phía đông và Solutré ở phía tây, đạt đỉnh cao cách đây 21.000 năm. Đồng thời với sự ấm lên của châu Âu lục địa, văn hóa Solutré dần chuyển biến thành văn hóa Magdalénien vào 20.000 năm trước, và quần thể người này đã tái chiếm châu Âu. Văn hóa Magdalénien và Epi-Gravette đã mở đường cho sự phát triển của các nền văn hóa thời đại đồ đá giữa, song song với sự tuyệt chủng của các loài mồi lớn và sự khép lại của thời kỳ băng hà cuối cùng.

Về mặt giải phẫu, người EEMH tương đối giống người châu Âu hiện đại, song họ có thân hình lực lưỡng hơn, khuôn mặt rộng hơn, đường gờ lông mày nổi bật hơn, và răng to hơn. Các mẫu vật EEMH cổ nhất sở hữu một số đặc điểm giống người Neanderthal. Những người EEMH đầu tiên có làn da sẫm màu; trên thực tế, phải tới khoảng 30.000 năm trước thì tính trạng da trắng ở người mới xuất hiện. Họ rất cao lớn, có vóc dáng ngang bằng người hiện đại hậu-công nghiệp; họ đã kiến tạo các tuyến giao thương có thể kéo dài tới 900 km (560 mi), và thường xuyên săn bắt những loài thú lớn. Trước giai đoạn LGM, mật độ dân số EEMH còn khá thấp, tuy lại lớn hơn đáng kể mật độ dân số Neanderthal, có lẽ bởi tỉ lệ chết trẻ cao hơn của người Neanderthal; tuổi thọ trung bình của cả hai loài người đương thời đều dưới 40 tuổi. Sau thời kỳ LGM, mật độ dân số của họ tăng lên do các cộng đồng ít di chuyển hơn, tuy nhiên nhu cầu tiêu thụ thực phẩm tăng cao song song với sự khan hiếm thú mồi cỡ lớn đã khiến họ phải lệ thuộc hơn vào thú mồi cỡ nhỏ và thủy sản, hơn nữa còn khiến họ phải áp dụng kiểu săn lùa mồi và giết thịt cả đàn. Người EEMH biết chế tạo các vũ khí săn như giáo mác, gẩy ném giáo và lao móc. Ngoài ra, họ đã thuần chủng được chó. Người EEMH dường như dựng các trại tạm bợ trên đường di chuyển, ví dụ như những chiếc lều làm bằng xương voi ma-mút trên Đồng bằng Đông Âu của văn hóa Gravette .

Niên đại

Sơ đồ biểu thị địa điểm các di chỉ của văn hóa Aurignac trước Cực đại băng hà cuối cùng (LGM).

Khi người hiện đại sơ khai (Homo sapiens) di cư vào châu Âu, họ tiếp xúc với người Neanderthal (H. neanderthalensis) đã có mặt ở đó từ hàng trăm ngàn năm trước. Năm 2019, nhà cổ nhân học người Hy Lạp Katerina Harvati và đồng sự lập luận rằng hai mẫu sọ 210.000 năm tuổi được tìm thấy trong Hang Apidima, Hy Lạp, thuộc về người hiện đại chứ không phải người Neanderthal — nếu điều này đúng thì chứng tỏ quần thể người hiện đại ở đây có một lịch sử lâu dài đáng ngạc nhiên[1] — song vào năm 2020, kết luận này bị bác bỏ bởi nhà cổ nhân học người Pháp Marie-Antoinette de Lumley (fr) và các đồng sự.[2] Khoảng 60.000 năm trước, giai đoạn đồng vị oxy 3 khởi phát, đặc trưng với các kiểu mẫu khí hậu hỗn loạn kèm theo sự thoái lui bất thường của rừng cây cạnh các khu vực thảo nguyên.[3]

Dấu hiệu sớm nhất về sự di cư của người hiện đại hậu kỳ đá cũ vào châu Âu là một loạt các mảnh răng cùng nhiều công cụ đá thuộc kỹ nghệ Neronian ở Grotte Mandrin, Malataverne, Pháp. Một nghiên cứu năm 2022 định tuổi các mẫu vật vào khoảng 56.800-51.700 năm trước. Văn hóa Neronian là một trong những kỹ nghệ có liên hệ với người hiện đại mà được coi là sự quá độ từ trung kỳ sang hậu kỳ đá cũ.[4] Ngoài ra, ta cũng đã phát hiện kỹ nghệ Bohunician Balkan bắt đầu từ 48.000 năm trước, rất có thể là hậu duệ của kỹ nghệ Emiran Levant,[5] và các hóa thạch cổ thứ nhì có niên đại trong khoảng 45–43 ngàn năm trước ở Bulgaria,[6] Ý,[7] và Anh.[8] Chưa rõ liệu những người này, khi tây tiến, từng men theo sông Danube hay bám theo đường bờ biển Địa Trung Hải.[9] Khoảng 45-44 ngàn năm trước, văn hóa tiền-Aurignac, nền văn hóa hậu kỳ đá cũ châu Âu được công nhận rộng rãi nhất, đã di tản khắp châu Âu, có lẽ phát sinh từ văn hóa Ahmar Cận Đông. Sau thời điểm 40.000 năm trước, đồng thời với sự kiện Heinrich 4, văn hóa Aurignac lõi đã biến đổi ở miền Nam-Trung châu Âu, rồi nhanh chóng thay thế tất cả các nền văn hóa khác trên lục địa.[10] Làn sóng nhập cư này của người hiện đại đã thay thế các quần thể Neanderthal và kỹ nghệ Moustier của họ.[11] Ở thung lũng Danube, các địa điểm khảo cổ thuộc văn hóa Aurignac rất thưa thớt và lẻ tẻ, nếu đem so sánh với các nền văn hóa trước, cho tới tầm 35.000 năm trước. Từ đó trở đi, "văn hóa Aurignac Điển hình" trở nên cực kỳ phổ biến, và kéo dài cho tới 29.000 năm trước.[12]

Văn hóa Aurignac từng bước một bị thế chỗ bởi văn hóa Gravette, song ta chưa rõ văn hóa Aurignac tuyệt diệt khi nào bởi vì định nghĩa của nó còn mơ hồ. Các công cụ "Aurignacoid" (có dạng thù Aurignac) hoặc "Epi-Aurignac" đã được xác định là tồn tại cho đến khoảng 18-15 nghìn năm trước.[12] Hơn nữa ta cũng còn chưa rõ văn hóa Gravette bắt nguồn từ đâu, bởi lẽ nó khá khác biệt so với văn hóa Aurignic (do đó nên có khả năng chúng không có quan hệ trực hệ).[13] Dẫu vậy, bằng chứng di truyền cho thấy dòng dõi Aurignac đã hoàn toàn tuyệt nòi.[14] Các giả thuyết về sự nở rộ của văn hóa Gravette bao gồm sự chuyển biến ở Trung Âu từ văn hóa Szeleta (phát triển từ văn hóa Bohunician) tồn tại từ 41-37 nghìn năm trước; hoặc từ văn hóa Ahmar hoặc các nền văn hóa tương tự tồn tại ở Cận Đông hoặc dãy Kavkaz trước thời điểm 40.000 năm trước.[13]

Sinh học

Đặc tính thể chất

Sọ của người phụ nữ Abri Pataud

Thể tích nội sọ trung bình của 28 mẫu vật người hiện đại trong khoảng 190-25 nghìn năm trước được ước tính là 1.478 cc (90,2 in khối), và đối với mẫu hẹp hơn gồm 13 cá thể thì thể tích nội sọ trung bình là 1.514 cc (92,4 in khối). Để đối chiếu, theo một ước tính, thể tích sọ trung bình của người ngày nay là 1.350 cc (82 in khối), rõ ràng nhỏ hơn. Sở dĩ có điều này là bởi não EEMH, tuy vẫn nằm trong phạm vi khả dĩ của não người ngày nay, có chiều dài thùy trán trung bình lớn hơn và thùy chẩm ở vị trí cao hơn. Tuy nhiên, thùy đỉnh của EEMH lại khá ngắn. Không rõ liệu đặc điểm này có tạo nên sự khác biệt hành vi giữa người hiện đại thời đó và người hiện đại ngày nay hay không.[15]

Về mặt thể chất, người EEMH giống người ngày nay ở nhiều bình diện: hộp sọ hình cầu, khuôn mặt dẹt, gờ lông mày mảnh dẻ, và cằm nổi rõ. Tuy vậy, xương EEMH dày và khỏe hơn.[16] Những EEMH sớm nhất thường sở hữu các đặc điểm giống người Neanderthal.[17] Cụ thể, tộc Aurignac thể hiện nhiều tính trạng giống người Neanderthal nhất, ví dụ như chỏm sọ hơi bẹt và búi chẩm trồi ra phía sau sọ (đôi khi khá nổi bật). Các đặc điểm này ở tộc Gravette có tần suất ít đi hẳn. Trong chuyên luận hình thái học năm 2007 của mình, nhà cổ nhân học Erik Trinkaus kết luận rằng những đặc điểm như thế là kết quả của sự xâm nhập gen Neanderthal, rốt cuộc đã bị chắt lọc khỏi vốn gen của người hiện đại.[18]

Phục dựng chân dung mẫu vật Oase 2 đã 40.000 năm tuổi.
(cá nhân này không có quan hệ huyết thống với bất kỳ một người còn sống nào)[19]

Chú thích

Tham khảo

  1. ^ Harvati, K.; và đồng nghiệp (2019). “Apidima Cave fossils provide earliest evidence of Homo sapiens in Eurasia”. Nature. 571 (7766): 500–504. doi:10.1038/s41586-019-1376-z. PMID 31292546. S2CID 195873640.
  2. ^ de Lumley, M.-A.; Guipert, G.; de Lumley, H.; Protopapa, N.; Pitsios, T. (2020). “Apidima 1 and Apidima 2: Two anteneandertal skulls in the Peloponnese, Greece”. L'Anthropologie. 124 (1): 102743. doi:10.1016/j.anthro.2019.102743. S2CID 216449347.
  3. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Zaatari2014
  4. ^ Slimak, L.; Zanolli, C.; Higham, T.; và đồng nghiệp (2022). “Modern human incursion into Neanderthal territories 54,000 years ago at Mandrin, France”. Science Advances. 8 (6): eabj9496. Bibcode:2022SciA....8J9496S. doi:10.1126/sciadv.abj9496. PMC 8827661. PMID 35138885.
  5. ^ Hoffecker, J. F. (2009). “The spread of modern humans in Europe”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 106 (38): 16040–16045. Bibcode:2009PNAS..10616040H. doi:10.1073/pnas.0903446106. PMC 2752585. PMID 19571003.
  6. ^ Hublin, J.-J.; Sirakov, N.; và đồng nghiệp (2020). “Initial Upper Palaeolithic Homo sapiens from Bacho Kiro Cave, Bulgaria” (PDF). Nature. 581 (7808): 299–302. Bibcode:2020Natur.581..299H. doi:10.1038/s41586-020-2259-z. hdl:11585/770553. PMID 32433609. S2CID 218592678.
  7. ^ Benazzi, S.; Douka, K.; Fornai, C.; Bauer, C.C.; Kullmer, O.; Svoboda, J.Í.; Pap, I.; Mallegni, F.; Bayle, P.; Coquerelle, M.; Condemi, S.; Ronchitelli, A.; Harvati, K.; Weber, G.W. (2011). “Early dispersal of modern humans in Europe and implications for Neanderthal behaviour”. Nature. 479 (7374): 525–528. Bibcode:2011Natur.479..525B. doi:10.1038/nature10617. PMID 22048311. S2CID 205226924.
  8. ^ Higham, T.; Compton, T.; Stringer, C.; Jacobi, R.; Shapiro, B.; Trinkaus, E.; Chandler, B.; Gröning, F.; Collins, C.; Hillson, S.; O'Higgins, P.; Fitzgerald, C.; Fagan, M. (2011). “The earliest evidence for anatomically modern humans in northwestern Europe”. Nature. 479 (7374): 521–524. Bibcode:2011Natur.479..521H. doi:10.1038/nature10484. PMID 22048314. S2CID 4374023.
  9. ^ Douka, Katerina; Grimaldi, Stefano; Boschian, Giovanni; Angiolo; Higham, Thomas F. G. (2012). “A new chronostratigraphic framework for the Upper Palaeolithic of Riparo Mochi (Italy)”. Journal of Human Evolution. 62 (2): 286–299. doi:10.1016/j.jhevol.2011.11.009. PMID 22189428.
  10. ^ Hoffecker, J. F. (1 tháng 7 năm 2009). “The spread of modern humans in Europe”. PNAS. 106 (38): 16040–16045. Bibcode:2009PNAS..10616040H. doi:10.1073/pnas.0903446106. PMC 2752585. PMID 19571003.
  11. ^ Higham, T.; Douka, K.; Wood, R.; và đồng nghiệp (2014). “The timing and spatiotemporal patterning of Neanderthal disappearance”. Nature. 512 (7514): 306–309. Bibcode:2014Natur.512..306H. doi:10.1038/nature13621. hdl:1885/75138. PMID 25143113. S2CID 205239973.
  12. ^ a b Henry-Gambier, D. (2002). “The Cro-Magnon Human Remains (Les Eyzies-de-Tayac, Dordogne): New information on their chronological position and cultural attribution”. Bulletins et mémoires de la Sociétéd'Anthropologie de Paris. 14 (1–2).
  13. ^ a b Svoboda, J. (2007). “The Gravettian on the Middle Danube”. Paleo (19): 204. doi:10.4000/paleo.607.
  14. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Fu2016
  15. ^ Balzeau, A.; Grimaud-Hervé, D.; Detroit, F.; Holloway, R. L. (2013). “First description of the Cro-Magnon 1 endocast and study of brain variation and evolution in anatomically modern Homo sapiens. Bulletins et Mémoires de la Société d anthropologie de Paris. 25 (1–2): 11–12. doi:10.1007/s13219-012-0069-z. S2CID 14675512.
  16. ^ Lieberman, D. E. (1998). “Sphenoid shortening and the evolution of modern human cranial shape”. Nature. 393 (6681): 158–162. Bibcode:1998Natur.393..158L. doi:10.1038/30227. PMID 9603517. S2CID 4409749.
  17. ^ Haviland, W. A.; Prins, H. E L.; Walrath, D.; McBride, B. (2010). Anthropology: The Human Challenge. Cengage Learning. tr. 204–205, 212. ISBN 978-0-495-81084-1. tr. 204-205: "Conversely, the earliest anatomically modern human skulls from Europe often exhibit features reminiscent of Neanderthals (see Chapter 7). In addition, some typical Neanderthal features are found in diverse living populations such as Bushmen from Southern Africa, Finns and Saami from Scandinavia, and aborigines from Australia."
    ["Trái lại, sọ người hiện đại về mặt giải phẫu sớm nhất tại châu Âu thường biểu hiện các đặc điểm giống người Neanderthal (xem Chap 7). Hơn nữa, một số đặc điểm Neanderthal điển hình có thể được tìm thất ở nhiều quần thể còn sống ngày nay như người Bushmen ở Nam Phi, người Phần Lan và người Saami ở Scandinavia, và thổ dân ở Úc."]
  18. ^ Trinkaus, E. (2007). “European early modern humans and the fate of the Neandertals”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 104 (18): 7367–7372. Bibcode:2007PNAS..104.7367T. doi:10.1073/pnas.0702214104. PMC 1863481. PMID 17452632.
  19. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên fu