Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Linh dương Saiga”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Kasirbot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.1) (Bot: Đổi en:Saiga Antelope thành en:Saiga antelope
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
{{Taxobox
{{Taxobox
| name = Linh dương Saiga
| status = EN
| status_system = iucn2.3
| image = Mongolia Saiga tatarica.jpg
| image = Mongolia Saiga tatarica.jpg
| image_caption = Linh dương Saiga (''Saiga tatarica'') đực
| image_caption = Một con linh dương đực ( Saiga tatarica )
| image_width = 250px
| status = CR
| status_system = IUCN3.1
| regnum = [[Animalia]]
| status_ref = <ref name="iucn">{{IUCN2012.2|assessors=Mallon, D.P.|year=2008|id=19832|title=Saiga tatarica|downloaded=19 December 2012}}</ref>
| phylum = [[Chordata]]
| trend = up
| regnum = [[Animalia]]
| phylum = [[Chordata]]
| Superclassis =
| classis = [[Mammalia]]
| classis = [[Mammalia]]
| subclassis =
| ordo = [[Artiodactyla]]
| ordo = [[Artiodactyla]]
| superordo =
| familia = [[Bovidae]]
| familia = [[Bovidae]]
| subfamilia = [[Antilopinae]]
| subfamilia = [[Antilopinae]]
| genus = '''''Saiga'''''
| genus = '''''Saiga'''''
| genus_authority = ([[Linnaeus]], 1766)
| species = '''''S. tatarica'''''
| species = '''''S. tatarica'''''
| binomial = ''Saiga tatarica''
| binomial = ''Saiga tatarica''
| binomial_authority = ([[Carolus Linnaeus|L.]], 1766)
| binomial_authority =
| range_map = Saiga tatarica historic&current distribution.jpg
| range_map_width = 240px
| range_map_caption = Phạm vi tái tạo (màu trắng) và phân bố hiện tại của hai phân loài ''tatarica tatarica'' (màu xanh) và S. t. mongolica (màu đỏ)
| synonyms =
}}
}}
[[Tập tin:Saiga.jpg|nhỏ|200px|Linh dương Saiga]]
'''Linh dương Saiga''' (tên khoa học: '''''Saiga tatarica''''') có nhiều ở [[Mông Cổ]], [[Kazakhstan]] và vùng Kalmykia ([[Nga]]). Linh dương Saiga thuộc loài ăn cỏ, chúng chọn ăn trên một trăm loại cỏ khác nhau.


'''Linh dương Saiga''' (''Saiga tatarica'' ) là một loài [[linh dương]] cực kỳ nguy cấp, từng hiện diện ở khắp các vùng thảo nguyên rộng lớn ở Á-Âu từ dãy [[Carpath]] và [[Caucasus]] tới [[Dzungaria]] và [[Mông Cổ]]. Chúng cũng từng có thời gian sống ở [[Bắc Mỹ]] trong kỷ [[Pleistocene]]. Hiện nay, phân loài đề cập (''Saiga tatarica'') được tìm thấy ở thảo nguyên phía tây bắc [[Precaspian]] (thuộc Nga) cùng với ba khu vực khác bao gồm [[Ural]], [[Ustiurt]] và [[Betpak]] (thuộc nước cộng hòa [[Kazakhstan]]). Một số ít linh dương Saiga ở Ustiurt di chuyển về phía Nam [[Uzbekistan]] và thỉnh thoảng thấy chúng ở [[Turkmenistan]] vào mùa đông còn phân loài linh dương Saiga Mông Cổ (''Saiga tatarica mongolica'') chỉ được tìm thấy ở miền Tây Mông Cổ<ref>{{cite web|title=Saiga/mongolian Saiga (''Saiga tatarica'')|url=http://www.edgeofexistence.org/mammals/species_info.php?id=62|work=Evolutionarily Distinct and Globally Endangered|publisher=The Zoological Society of London|accessdate=19 December 2012}}</ref>.
== Đặc điểm ==
[[Tập tin:Antiloper I, Nordisk familjebok.png|nhỏ|300px|Bầy linh dương]]
Thân mình chúng trông cứng cáp, khỏe mạnh, đuôi ngắn. Tiếng kêu gần giống như tiếng bò kêu. Con đực có đôi sừng dài, những cái sừng này rất lạ mắt: có màu như màu sáp và trông như có những cái vòng nhỏ được gắn dọc theo sừng.


==Phân bố và môi trường sống==
Linh dương Saiga nặng từ 30-45 kg, chỗ vai cao khoảng 0,6-0,8 m; thân mình dài khoảng 1-1,5 m. Đặc điểm nổi bật nhất là chúng có cái đầu lớn với cái mũi dễ chuyển động, mũi trông như một cái vòi nhỏ. Nhiều người nghĩ rằng lỗ mũi kỳ lạ của chúng có thể là để thích nghi với điều kiện khí hậu khắc nghiệt: làm cho không khỉ ẩm và ấm trước khi vào phổi.
Linh dương Saiga sống thành từng đàn trên các thảo nguyên. Trong kỷ băng hà, chúng có mặt tận các khu vực của đảo [[Anh]], kéo dài qua [[Trung Á]], thông qua [[eo biển Bering]] tới [[Alaska]] và [[Yukon]]. Chúng được coi là loài đặc trưng của vùng [[Scythia]]. Đầu thế kỷ 18, phạm vi sinh sống của chúng bị thu hẹp lại nhanh chóng, từ khu vực [[Biển Đen]] , chân núi Carpath và phía bắc của Caucasus kéo dài qua Dzungaria và Mông Cổ.


Số lượng của chúng giảm nhanh chóng trong những năm 1920 và sau đó dần hồi phục vào năm 1950 với khoảng 2.000.000 cá thể tìm thấy tại các vùng thảo nguyên rộng lớn của [[Liên Xô]]. Sau khi Liên Xô tan rã, do tình trạng săn bắn bừa bãi và nhu cầu sừng linh dương trong y học của [[Trung Quốc]]. Một số tổ chức bảo tồn như [[Quỹ Động vật hoang dã Thế giới]] (WWF) đã khuyến khích việc săn loài này như là việc thay thế sừng của chúng trong các bài thuốc thay cho sừng [[tê giác]]<ref name="EllisNTB">{{cite book| last = Ellis| first = Richard| authorlink = Richard Ellis (biologist) | title = No Turning Back: The Life and Death of Animal Species| publisher = Harper Perennial | year = 2004| location = New York| isbn =0-06-055804-0| page = 210 |url=http://books.google.ca/books?id=_ekrqLJOypQC&pg=PA210 |accessdate=19 December 2012}}</ref><ref name="newscientist">{{cite news|url=http://www.newscientist.com/article/dn3376-rhino-rescue-plan-decimates-asian-antelopes.html|title=Rhino rescue plan decimates Asian scientists|date=2003-02-12|accessdate=2012-12-23|publisher=New Scientist|author=Fred Pearce}}</ref>
Bộ lông của Saiga cũng có những đặc điểm thích nghi thật lạ. Mùa hè, bộ lông ngắn lại, vào mùa này lưng và cổ của chúng có màu đỏ hơi vàng, bụng có màu nhạt hơn. Những lúc nóng nực nhất trong ngày chúng chỉ nằm nghỉ tại chỗ và không hề di chuyển đi đâu mãi cho đến khi mặt trời lặn. Nhưng vào mùa đông chúng lại hoạt động năng nổ cả ngày, trong thời tiết giá lạnh bộ lông của chúng lại tự phát triển trở nên dày hơn và dài hơn. Bộ lông chuyển sang màu xám xịt trên lưng và cổ, dưới bụng thì màu xám nâu.


Linh dương Saiga giảm đi 95% trong 15 năm<ref>{{cite web|title=Welcome to the Saiga Conservation Alliance|url=http://www.saiga-conservation.com/home.html|publisher=Saiga Conservation Alliance|accessdate=19 December 2012}}</ref> khiến chúng là loài cực kỳ nguy cấp được ghi trong sách đỏ của [[IUCN]]. Trong năm 2003 có hơn 1 triệu con sống tại Nga và Kazakhstan, cho đến năm 2003 chỉ còn khoảng 30.000 còn sống.<ref name="newscientist"/> Hiện nay chỉ còn khoảng 50.000 con tồn tại ở [[Kalmykia]], ba khu vực tại Kazakhstan, hai tại Mông Cổ và một số ít ở phía bắc [[Caspian]]<ref>{{cite web|title=Emergency appeal: saigas of the pre-Caspian region of Russia under extreme threat|url=http://www.saiga-conservation.com/news_article/items/emergency-appeal-for-the-saigas-of-the-pre-caspian-region-of-rus.html|publisher=Saiga Conservation Alliance|accessdate=19 December 2012|date=18 March 2010}}</ref>.
== Sinh sản ==
Con cái trưởng thành lúc 7-8 tháng tuổi, trong khi con đực phải được 2 năm mới tới mức trưởng thành. Mùa sinh sản từ cuối tháng 11 đến cuối tháng 12, con cái mang thai 5 tháng và thường đẻ mỗi lứa chỉ 2 con non.


[[Khu bảo tồn thiên nhiên Cherny Zemli]] thuộc nước cộng hòa Kalmykia của Nga được thành lập vào năm 1990 nhằm bảo vệ số lượng loài linh dương Saiga tại địa phương. Chủ tịch nước Cộng hòa Kalmykia là [[Kirsan Ilyumzhinov]] tuyên bố năm 2010 là năm của linh dương Saiga. Tại Kazakhstan, số lượng Saiga gần đây đã được tìm thấy ngày càng tăng, từ khoảng 21.000 con đã lên 81.000 trong tháng 1 năm 2010.
Linh dương Saiga là loài "đa thê" đúng nghĩa. Vào mùa sinh sản, chúng tập họp thành bầy, mỗi bầy có từ 5-10 con cái và chỉ duy nhất 1 con đực. Con đực rất quan tâm đến việc bảo vệ "đàn vợ" của mình. Vào mùa này, các con đực trưởng thành thường đánh nhau dữ đội, nhưng chúng không hề giết chết nhau.


Tháng 5 năm 2010, 12.000 con linh dương Saiga trong tổng số 26.000 con tại khu vực Ural ở Kazakhstan. Nguyên nhân được cho là do bệnh [[tụ huyết trùng]] gây ra<ref>{{cite web|title=Mystery over mass antelope deaths in Kazakhstan|url=http://www.bbc.co.uk/news/10179345|publisher=BBC News|accessdate=19 December 2012|date=28 May 2010}}</ref>. Tháng 11 năm 2010, Kazakhstan ra lệnh cấm săn bắn loài linh dương Saiga, và lệnh cấm này có hiệu lực cho đến năm 2021. Một số quốc gia Trung Á khác cũng tìm cách để cứu loài này khỏi bờ vực tuyệt chủng<ref>{{cite web|title=Kazakhstan extends Saiga antelope hunting ban until 2021|url=http://silkroadintelligencer.com/2011/01/19/kazakhstan-extends-saiga-antelope-hunting-ban-until-2021/|publisher=Silk Road Intelligencer|accessdate=19 December 2012|archiveurl=http://web.archive.org/web/20110729080043/http://silkroadintelligencer.com/2011/01/19/kazakhstan-extends-saiga-antelope-hunting-ban-until-2021/|archivedate=29 July 2011|date=19 January 2011}}</ref>.
Nhiều con đực không hề ăn cỏ trong suốt mùa sinh sản và dùng hầu như toàn bộ sức lực còn trong người để đánh đuổi "tình địch". Kết quả là cuối mùa sinh sản những con đực trưởng thành trở nên yếu ớt và thường chết từ 80-90%.


Riêng phân loài linh dương Saiga Mông Cổ chỉ được tìm thấy trong một khu vực nhỏ ở phía Tây Mông Cổ, xung quanh [[Khu bảo tồn thiên nhiên Sharga]] và [[Khu bảo tồn thiên nhiên Mankhan|Mankhan]]<ref>{{cite book|last=Mallon|first=David P.|title=Antelopes: Part 4 - North Africa, the Middle East, and Asia: Global Survey and Regional Action Plans|year=2001|publisher=International Union for Conservation of Nature|isbn=2831705940|url=http://books.google.ca/books?id=uFo03Nd2oj8C&pg=PA164|coauthors=Kingswood, Steven Charles|accessdate=19 December 2012|page=164}}</ref>.
Sau mùa sinh sản, linh dương Saiga lại cùng nhau họp thành đàn lớn có từ 30-40 con, chúng cùng di cư để tránh bão tuyết hay hạn hán. Lúc này tuy hợp lại với nhau đông đúc nhưng không hề có con đầu đàn.


Một số sở thú xuất hiện loài linh dương Saiga như ở [[Moscow]] và [[Askania-Nova]]<ref>{{cite web|title=Western saiga (Russian saiga)|url=http://www.zootierliste.de/en/?klasse=1&ordnung=116&familie=11609&art=1160921|publisher=Zootierliste|accessdate=19 December 2012}}</ref> và một số công viên đang có kế hoạch giới thiệu loài này cho khách tham quan.
== Giá trị kinh tế ==
Lông, thịt và sừng của chúng rất có giá trị kinh tế. Sừng dài khoảng 28-30 cm có giá nhất, thường được con người nghiền nhỏ để làm thuốc giảm sốt{{fact}}.


== Ghi chú ==
==Đặc điểm==
[[Image:Saiga.jpg|thumb|left|Cận cảnh mặt của một con linh dương Saiga]]
{{reflist}}
Linh dương Saiga di cư theo mùa, chúng tới những khu đồng cỏ ở phía Bắc vào mùa xuân, tới những khu chăn thả gia súc vào mùa hè và trở về phương nam để tránh đông và mùa thu.


Chúng có chiều cao 108 - 146 cm (3,6 - 4,8 ft) trong đó chiều cao tới vai của chúng là từ 60 - 80 cm và nặng từ 36 - 63 kg (79 - 140 lb). Đuôi của linh dương Saiga khá ngắn, chỉ khoảng 6 - 13 cm. Những con đực có sừng lớn từ 20-25 cm (8-10 inches) và thường lớn hơn so với những con cái. Tuổi thọ của loài linh dương Saiga khoảng từ 6 đến 10 năm. Chúng có đặc điểm dễ nhận biết đó là cấu trúc mũi linh hoạt, giống như vòi của loài [[heo vòi]]. Chiếc vòi của chúng có cấu tạo độc đáo, rất nhiều lông, tuyến nhầy và hệ thống xương phức tạp. Mũi của chúng có chức năng lọc bụi trong không khí trong quá trình chúng di chuyển, làm ấm không khí trước khi nó vào trong phổi vào mùa đông.
== Liên kết ngoài ==

{{commons|Saiga tatarica|Linh dương Saiga}}
Vào mùa hè, linh dương Saiga có lớp lông mỏng màu [[quế]] còn mùa đông lông của chúng có màu trắng và dày lên gần gấp đôi (70% so với bộ lông của chúng trong mùa hè). Chân của linh dương Saiga khá khẳng khiu và chúng có khả năng bơi qua các con sông.
* [http://www.duoclieu.org/2011/11/antelopes-horn-lingyangjiao.html Antelope's horn (Lingyangjiao)]

* [http://www.cms.int/species/saiga/saiga_meetings.htm CMS Saiga Memorandum of Understanding]
Linh dương Saiga là loài hoạt động vào ban ngày, có phạm vi sống không cố định, thường xuyên di chuyển tới 80-120 km (48-72 dặm) một ngày. Chúng có thính giác kém phát triển nhưng thị giác có thể nhìn trước nguy hiểm xa tới 0,6 dặm nhưng chúng là một loài nhút nhát và rất dễ giật mình, ngay cả khi đứng thành đàn đông đúc.
* ARKive - [http://www.arkive.org/species/GES/mammals/Saiga_tatarica/ images and movies of the Saiga antelope ''(Saiga tatarica)'']

* [http://saigak.biodiversity.ru/ Information Support of Saiga Preservation Programs] {{ru icon}}
==Thức ăn==
* [http://www.cic-wildlife.org/?id=157 CIC - International Council for Game and Wildlife Conservation]
Thức ăn chính của linh dương Saiga là các loài cỏ trên thảo nguyên, trong đó có nhiều các loài cỏ có độc tố mà các loài động vật ăn cỏ khác không ăn được, nhưng với linh dương Saiga thì chúng vô hại.

==Sinh sản==
Mùa sinh sản bắt đầu vào tháng 10 khi con đực tranh giành con cái. Những con đực có một cuộc chiến khốc liệt và kết quả là 97 % con đực sẽ chết. Con đực nào chiến thắng có thể giành quyền giao phối từ 5 - 50 linh dương cái. Khi mùa xuân đến, đàn linh dương sẽ di chuyển về phía Bắc, và các con non sẽ được đẻ sau khoảng 140 ngày mẹ chúng mang thai. Hầu hết mỗi linh dương cái chỉ đẻ duy nhất một con mỗi lần.

==Bảo tồn==
[[Liên minh bảo tồn linh dương Saiga]] (viết tắt là '''SCA''') bắt đầu thành lập và đi vào hoạt động vào những năm 1990 như là một mạng lưới không chính thức của các nhà nghiên cứu và tổ chức bảo vệ môi trường để nghiên cứu và bảo vệ linh dương Saiga đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. SCA đã chính thức được thành lập vào tháng 9 năm 2006, và trong tháng 11 năm 2006 đã trở thành đối tác với [[Mạng lưới bảo tồn động thực vật hoang dã]] (WCN).<ref>{{cite web|title=Who we are|url=http://www.saiga-conservation.com/who.html|publisher=Saiga Conservation Alliance|accessdate=19 December 2012}}</ref> SCA cũng xuất bản ấn phẩm hai lần mỗi năm đề cập tới tình trạng bảo tồn, phậm vi sinh sống cùng những nghiên cứu mới về linh dương Saiga.<ref>{{cite web|title=Saiga News|url=http://www.saiga-conservation.com/saiga_news.html|publisher=Saiga Conservation Alliance|accessdate=19 December 2012}}</ref>

Một số tổ chức ở châu Âu đang có kế hoạch để đưa linh dương Saiga trở lại môi trường sống ở châu Âu, nơi mà chúng cũng đã từng sinh sống.<ref>{{cite web|title=Big efforts needed for wildlife recovery|url=http://www.rewildingeurope.com/news/articles/big-efforts-needed-for-wildlife-recovery/|publisher=Rewilding Europe|accessdate=19 December 2012|date=11 November 2011}}</ref>

Dưới sự bảo trợ của Công ước về các loài động vật hoang dã di cư (CMS), còn được gọi là [[Công ước Bonn]], biên bản ghi nhớ (MoU) về bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững linh dương Saiga đã được ký kết bởi 5 quốc gia và rất nhiều các tổ chức đã có hiệu lực từ 24 tháng 9 năm 2006<ref>{{cite web|title=Memorandum of Understanding concerning Conservation, Restoration and Sustainable Use of the Saiga Antelope (Saiga spp)|url=http://www.cms.int/pdf/en/summary_sheets/saig.pdf|publisher=Convention on Migratory Species|date=25 September 2011|accessdate=19 December 2012}}</ref>. Là một trong những loài động vật có vú có số lượng giảm nhanh nhất, biên bản ghi nhớ nhằm mục đích giảm mức độ khai thác hiện tại và khôi phục lại số lượng ban đầu của loài động vật hoang dã trên thảo nguyên Trung Á này.

== Tài liệu tham khảo ==
{{reflist|35em}}

== Đọc thêm ==
{{refbegin}}
*{{cite journal |author=Singh, N.J., Milner-Gulland, E.J. (2011) |title=Conserving a moving target: planning protection for a migratory species as its distribution changes |journal= Journal of Applied Ecology, |volume=48 |pages= 35–46 |doi=10.1111/j.1365-2664.2010.01905.x |year=2011}}
*{{cite journal |author=Singh, N.J., Grachev, Iu.A., Bekenov, A.B., Milner-Gulland, E.J. (2010) |title=Tracking greenery in Central Asia: The migration of the saiga antelope |journal=Diversity and Distributions |volume=16 |pages=663–675 |doi=10.1111/j.1472-4642.2010.00671.x |year=2010 |issue=4}}
*{{cite journal |author=Singh, N.J., Grachev, Iu.A., Bekenov, A.B., Milner-Gulland, E.J. (2010) |title=Saiga antelope calving site selection is increasingly driven by human disturbance |journal=Biological Conservation |volume=143 |pages=1770–1779 |doi=10.1016/j.biocon.2010.04.026 |year=2010 |issue=7}}
*{{cite journal |author=Kuhl, A., Mysterud, A., Grachev, Iu.A., Bekenov, A.B., Ubushaev, B.S., Lushchekina, A.A., Milner-Gulland, E.J. (2009) |title=Monitoring population productivity in the saiga antelope |journal=Animal Conservation |volume=12 |pages=355–363 |doi=10.1111/j.1469-1795.2009.00260.x |year=2009 |issue=4}}
*{{cite journal |author=Kuhl, A., Balinova, N., Bykova, E., Esipov, A., Arylov, Iu.A., Lushchekina, A.A., Milner-Gulland, E.J. (2009) |title=The role of saiga poaching in rural communities: Linkages between attitudes, socio-economic circumstances and behaviour |journal=Biological Conservation |volume=142 |pages=1442–1449 |doi=10.1016/j.biocon.2009.02.009 |year=2009 |issue=7}}
*{{cite journal |author=Kuhl, A., Mysterud, A., Erdnenov, G.I., Lushchekina, A.A., Grachev, Iu. A., Bekenov, A.B., Milner-Gulland, E.J. (2007) |title=The big spenders of the steppe: sex-specific maternal allocation and twinning in the saiga antelope |journal=Proceedings of the Royal Society B |volume=274 |pages=1293–1299|doi=10.1098/rspb.2007.0038 |pmid=17341456 |year=2007 |issue=1615 |pmc=2176182}}.
*{{cite journal |author=Morgan, E.R., Medley, G.F., Torgerson, P.R., Shaikenov, B., and Milner-Gulland, E.J. (2007) |title=Parasite transmission in a migratory multiple host system |journal=Ecological Modelling |volume=200 |pages=511–520|doi=10.1016/j.ecolmodel.2006.09.002 |year=2007 |issue=3–4}}
*{{cite journal |author=Kholodova, M.V., Milner-Gulland, E.J., Easton, A.J., Amgalan, L., Arylov, Iu., Bekenov, A., Grachev, Iu.A., Lushchekina, A.A., Ryder, O. (2006) |title=Mitochondrial DNA variation and population structure of the Critically Endangered saiga antelope Saiga tatarica |journal=Oryx |volume=40 |pages=103–107|doi=10.1017/S0030605306000135 |year=2006}}
*{{cite journal |author=Morgan, E.R., Lundervold, M., Medley, G.F., Shaikenov, B.S., Torgerson, P.R., Milner-Gulland, E.J. (2006) |title=Assessing risks of disease transmission between wildlife and livestock: the Saiga antelope as a case study |journal=Biological Conservation |volume=131 |pages=244–254|doi=10.1016/j.biocon.2006.04.012 |year=2006 |issue=2}}
*{{cite journal |author=Morgan, E.R., Shaikenov, B., Torgerson, P.R., Medley, G.F., Milner-Gulland, E.J. (2005) |title=Helminths of saiga antelopes in Kazakhstan: Implications for conservation and livestock production |journal=Journal of Wildlife Diseases |volume=41 |pages=149–162 |pmid=15827221 |year=2005 |issue=1}}
*{{cite journal |author=Milner-Gulland, E.J., Bukreeva, O.M., Coulson, T.N., Lushchekina, A.A., Kholodova, M.V., Bekenov, A.B., Grachev, Iu.A. (2003) |title=Reproductive collapse in saiga antelope harems |journal=Nature |volume=422 |page=135|issue=6928 |doi=10.1038/422135a |pmid=12634775 |year=2003}}
*{{cite journal |author=Robinson, S., Milner-Gulland, E.J. (2003) |title=Political change and factors limiting numbers of wild and domestic ungulates in Kazakhstan |journal=Human Ecology |volume=31 |pages=87–110|doi=10.1023/A:1022834224257 |year=2003}}
*{{cite journal |author=Milner-Gulland, E.J., Kholodova, M.V., Bekenov, A.B., Bukreeva, O.M., Grachev, Iu.A., Amgalan, L., Lushchekina, A.A. (2001) |title=Dramatic declines in saiga antelope populations |journal=Oryx |volume=35 |pages=340–345 |doi=10.1046/j.1365-3008.2001.00202.x |year=2001 |issue=4}}
{{refend}}

==Liên kết ngoài==
{{commons|Saiga tatarica|Saiga Antelope}}
*[http://www.cms.int/species/saiga/saiga_meetings.htm CMS Saiga Memorandum of Understanding]
*{{ARKive|saiga-antelope|saiga-tatarica}}
*[http://saigak.biodiversity.ru/ Information Support of Saiga Preservation Programs] {{ru icon}}
*[http://www.cic-wildlife.org/?id=157 CIC – International Council for Game and Wildlife Conservation]
* [http://www.saiga-conservation.com Saiga Conservation Alliance]
* [http://www.saiga-conservation.com Saiga Conservation Alliance]
*[http://www.ultimateungulate.com/Artiodactyla/Saiga_tatarica.html Ultimate Ungulate]
{{Commonscat|Saiga tatarica}}
*[http://panda.org/species/saigaantelope WWF species profile: Saiga antelope]


[[Thể loại:Phân họ Linh dương]]
[[Thể loại:Quần động vật Kazakhstan]]
[[Thể loại:Loài EDGE]]


[[Thể loại:Linh dương]]
[[an:Saiga tatarica]]
[[an:Saiga tatarica]]
[[av:Сайга]]
[[av:Сайга]]
[[ms:Saiga]]
[[be:Сайгак]]
[[be:Сайгак]]
[[br:Saiga]]
[[bg:Сайга]]
[[bg:Сайга]]
[[br:Saiga]]
[[ca:Saiga]]
[[ca:Saiga]]
[[cs:Sajga tatarská]]
[[cs:Sajga tatarská]]
[[de:Saiga]]
[[de:Saiga]]
[[nv:Jádí bíchį́į́htsohígíí]]
[[nv:Jádí bíchį́į́htsohígíí]]
[[en:Saiga antelope]]
[[es:Saiga tatarica]]
[[es:Saiga tatarica]]
[[eo:Altnaza antilopo]]
[[eo:Altnaza antilopo]]
Dòng 78: Dòng 119:
[[ka:საიგა]]
[[ka:საიგა]]
[[kk:Ақбөкен]]
[[kk:Ақбөкен]]
[[lez:Сайга]]
[[lt:Saiga]]
[[lt:Saiga]]
[[lez:Сайга]]
[[hu:Szajga]]
[[hu:Szajga]]
[[ms:Saiga]]
[[nl:Saïga]]
[[nl:Saïga]]
[[ja:サイガ]]
[[ja:サイガ]]
Dòng 95: Dòng 137:
[[uk:Сайгак]]
[[uk:Сайгак]]
[[ug:قاڭشارلىق بۆكەن]]
[[ug:قاڭشارلىق بۆكەن]]
[[vi:Linh dương Saiga]]
[[zh:高鼻羚羊]]
[[zh:高鼻羚羊]]

Phiên bản lúc 16:28, ngày 23 tháng 12 năm 2012

Linh dương Saiga
Tập tin:Mongolia Saiga tatarica.jpg
Một con linh dương đực ( Saiga tatarica )
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Artiodactyla
Họ (familia)Bovidae
Phân họ (subfamilia)Antilopinae
Chi (genus)Saiga
(Linnaeus, 1766)
Loài (species)S. tatarica
Danh pháp hai phần
Saiga tatarica
Phạm vi tái tạo (màu trắng) và phân bố hiện tại của hai phân loài tatarica tatarica (màu xanh) và S. t. mongolica (màu đỏ)
Phạm vi tái tạo (màu trắng) và phân bố hiện tại của hai phân loài tatarica tatarica (màu xanh) và S. t. mongolica (màu đỏ)

Linh dương Saiga (Saiga tatarica ) là một loài linh dương cực kỳ nguy cấp, từng hiện diện ở khắp các vùng thảo nguyên rộng lớn ở Á-Âu từ dãy CarpathCaucasus tới DzungariaMông Cổ. Chúng cũng từng có thời gian sống ở Bắc Mỹ trong kỷ Pleistocene. Hiện nay, phân loài đề cập (Saiga tatarica) được tìm thấy ở thảo nguyên phía tây bắc Precaspian (thuộc Nga) cùng với ba khu vực khác bao gồm Ural, UstiurtBetpak (thuộc nước cộng hòa Kazakhstan). Một số ít linh dương Saiga ở Ustiurt di chuyển về phía Nam Uzbekistan và thỉnh thoảng thấy chúng ở Turkmenistan vào mùa đông còn phân loài linh dương Saiga Mông Cổ (Saiga tatarica mongolica) chỉ được tìm thấy ở miền Tây Mông Cổ[2].

Phân bố và môi trường sống

Linh dương Saiga sống thành từng đàn trên các thảo nguyên. Trong kỷ băng hà, chúng có mặt tận các khu vực của đảo Anh, kéo dài qua Trung Á, thông qua eo biển Bering tới AlaskaYukon. Chúng được coi là loài đặc trưng của vùng Scythia. Đầu thế kỷ 18, phạm vi sinh sống của chúng bị thu hẹp lại nhanh chóng, từ khu vực Biển Đen , chân núi Carpath và phía bắc của Caucasus kéo dài qua Dzungaria và Mông Cổ.

Số lượng của chúng giảm nhanh chóng trong những năm 1920 và sau đó dần hồi phục vào năm 1950 với khoảng 2.000.000 cá thể tìm thấy tại các vùng thảo nguyên rộng lớn của Liên Xô. Sau khi Liên Xô tan rã, do tình trạng săn bắn bừa bãi và nhu cầu sừng linh dương trong y học của Trung Quốc. Một số tổ chức bảo tồn như Quỹ Động vật hoang dã Thế giới (WWF) đã khuyến khích việc săn loài này như là việc thay thế sừng của chúng trong các bài thuốc thay cho sừng tê giác[3][4]

Linh dương Saiga giảm đi 95% trong 15 năm[5] khiến chúng là loài cực kỳ nguy cấp được ghi trong sách đỏ của IUCN. Trong năm 2003 có hơn 1 triệu con sống tại Nga và Kazakhstan, cho đến năm 2003 chỉ còn khoảng 30.000 còn sống.[4] Hiện nay chỉ còn khoảng 50.000 con tồn tại ở Kalmykia, ba khu vực tại Kazakhstan, hai tại Mông Cổ và một số ít ở phía bắc Caspian[6].

Khu bảo tồn thiên nhiên Cherny Zemli thuộc nước cộng hòa Kalmykia của Nga được thành lập vào năm 1990 nhằm bảo vệ số lượng loài linh dương Saiga tại địa phương. Chủ tịch nước Cộng hòa Kalmykia là Kirsan Ilyumzhinov tuyên bố năm 2010 là năm của linh dương Saiga. Tại Kazakhstan, số lượng Saiga gần đây đã được tìm thấy ngày càng tăng, từ khoảng 21.000 con đã lên 81.000 trong tháng 1 năm 2010.

Tháng 5 năm 2010, 12.000 con linh dương Saiga trong tổng số 26.000 con tại khu vực Ural ở Kazakhstan. Nguyên nhân được cho là do bệnh tụ huyết trùng gây ra[7]. Tháng 11 năm 2010, Kazakhstan ra lệnh cấm săn bắn loài linh dương Saiga, và lệnh cấm này có hiệu lực cho đến năm 2021. Một số quốc gia Trung Á khác cũng tìm cách để cứu loài này khỏi bờ vực tuyệt chủng[8].

Riêng phân loài linh dương Saiga Mông Cổ chỉ được tìm thấy trong một khu vực nhỏ ở phía Tây Mông Cổ, xung quanh Khu bảo tồn thiên nhiên ShargaMankhan[9].

Một số sở thú xuất hiện loài linh dương Saiga như ở MoscowAskania-Nova[10] và một số công viên đang có kế hoạch giới thiệu loài này cho khách tham quan.

Đặc điểm

Cận cảnh mặt của một con linh dương Saiga

Linh dương Saiga di cư theo mùa, chúng tới những khu đồng cỏ ở phía Bắc vào mùa xuân, tới những khu chăn thả gia súc vào mùa hè và trở về phương nam để tránh đông và mùa thu.

Chúng có chiều cao 108 - 146 cm (3,6 - 4,8 ft) trong đó chiều cao tới vai của chúng là từ 60 - 80 cm và nặng từ 36 - 63 kg (79 - 140 lb). Đuôi của linh dương Saiga khá ngắn, chỉ khoảng 6 - 13 cm. Những con đực có sừng lớn từ 20-25 cm (8-10 inches) và thường lớn hơn so với những con cái. Tuổi thọ của loài linh dương Saiga khoảng từ 6 đến 10 năm. Chúng có đặc điểm dễ nhận biết đó là cấu trúc mũi linh hoạt, giống như vòi của loài heo vòi. Chiếc vòi của chúng có cấu tạo độc đáo, rất nhiều lông, tuyến nhầy và hệ thống xương phức tạp. Mũi của chúng có chức năng lọc bụi trong không khí trong quá trình chúng di chuyển, làm ấm không khí trước khi nó vào trong phổi vào mùa đông.

Vào mùa hè, linh dương Saiga có lớp lông mỏng màu quế còn mùa đông lông của chúng có màu trắng và dày lên gần gấp đôi (70% so với bộ lông của chúng trong mùa hè). Chân của linh dương Saiga khá khẳng khiu và chúng có khả năng bơi qua các con sông.

Linh dương Saiga là loài hoạt động vào ban ngày, có phạm vi sống không cố định, thường xuyên di chuyển tới 80-120 km (48-72 dặm) một ngày. Chúng có thính giác kém phát triển nhưng thị giác có thể nhìn trước nguy hiểm xa tới 0,6 dặm nhưng chúng là một loài nhút nhát và rất dễ giật mình, ngay cả khi đứng thành đàn đông đúc.

Thức ăn

Thức ăn chính của linh dương Saiga là các loài cỏ trên thảo nguyên, trong đó có nhiều các loài cỏ có độc tố mà các loài động vật ăn cỏ khác không ăn được, nhưng với linh dương Saiga thì chúng vô hại.

Sinh sản

Mùa sinh sản bắt đầu vào tháng 10 khi con đực tranh giành con cái. Những con đực có một cuộc chiến khốc liệt và kết quả là 97 % con đực sẽ chết. Con đực nào chiến thắng có thể giành quyền giao phối từ 5 - 50 linh dương cái. Khi mùa xuân đến, đàn linh dương sẽ di chuyển về phía Bắc, và các con non sẽ được đẻ sau khoảng 140 ngày mẹ chúng mang thai. Hầu hết mỗi linh dương cái chỉ đẻ duy nhất một con mỗi lần.

Bảo tồn

Liên minh bảo tồn linh dương Saiga (viết tắt là SCA) bắt đầu thành lập và đi vào hoạt động vào những năm 1990 như là một mạng lưới không chính thức của các nhà nghiên cứu và tổ chức bảo vệ môi trường để nghiên cứu và bảo vệ linh dương Saiga đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. SCA đã chính thức được thành lập vào tháng 9 năm 2006, và trong tháng 11 năm 2006 đã trở thành đối tác với Mạng lưới bảo tồn động thực vật hoang dã (WCN).[11] SCA cũng xuất bản ấn phẩm hai lần mỗi năm đề cập tới tình trạng bảo tồn, phậm vi sinh sống cùng những nghiên cứu mới về linh dương Saiga.[12]

Một số tổ chức ở châu Âu đang có kế hoạch để đưa linh dương Saiga trở lại môi trường sống ở châu Âu, nơi mà chúng cũng đã từng sinh sống.[13]

Dưới sự bảo trợ của Công ước về các loài động vật hoang dã di cư (CMS), còn được gọi là Công ước Bonn, biên bản ghi nhớ (MoU) về bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững linh dương Saiga đã được ký kết bởi 5 quốc gia và rất nhiều các tổ chức đã có hiệu lực từ 24 tháng 9 năm 2006[14]. Là một trong những loài động vật có vú có số lượng giảm nhanh nhất, biên bản ghi nhớ nhằm mục đích giảm mức độ khai thác hiện tại và khôi phục lại số lượng ban đầu của loài động vật hoang dã trên thảo nguyên Trung Á này.

Tài liệu tham khảo

  1. ^ Mallon, D.P. (2008). Saiga tatarica. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2012.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  2. ^ “Saiga/mongolian Saiga (Saiga tatarica)”. Evolutionarily Distinct and Globally Endangered. The Zoological Society of London. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  3. ^ Ellis, Richard (2004). No Turning Back: The Life and Death of Animal Species. New York: Harper Perennial. tr. 210. ISBN 0-06-055804-0. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  4. ^ a b Fred Pearce (12 tháng 2 năm 2003). “Rhino rescue plan decimates Asian scientists”. New Scientist. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2012.
  5. ^ “Welcome to the Saiga Conservation Alliance”. Saiga Conservation Alliance. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  6. ^ “Emergency appeal: saigas of the pre-Caspian region of Russia under extreme threat”. Saiga Conservation Alliance. 18 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  7. ^ “Mystery over mass antelope deaths in Kazakhstan”. BBC News. 28 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  8. ^ “Kazakhstan extends Saiga antelope hunting ban until 2021”. Silk Road Intelligencer. 19 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  9. ^ Mallon, David P. (2001). Antelopes: Part 4 - North Africa, the Middle East, and Asia: Global Survey and Regional Action Plans. International Union for Conservation of Nature. tr. 164. ISBN 2831705940. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  10. ^ “Western saiga (Russian saiga)”. Zootierliste. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  11. ^ “Who we are”. Saiga Conservation Alliance. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  12. ^ “Saiga News”. Saiga Conservation Alliance. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  13. ^ “Big efforts needed for wildlife recovery”. Rewilding Europe. 11 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  14. ^ “Memorandum of Understanding concerning Conservation, Restoration and Sustainable Use of the Saiga Antelope (Saiga spp)” (PDF). Convention on Migratory Species. 25 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.

Đọc thêm

  • Singh, N.J., Milner-Gulland, E.J. (2011) (2011). “Conserving a moving target: planning protection for a migratory species as its distribution changes”. Journal of Applied Ecology,. 48: 35–46. doi:10.1111/j.1365-2664.2010.01905.x.Quản lý CS1: dấu chấm câu dư (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Singh, N.J., Grachev, Iu.A., Bekenov, A.B., Milner-Gulland, E.J. (2010) (2010). “Tracking greenery in Central Asia: The migration of the saiga antelope”. Diversity and Distributions. 16 (4): 663–675. doi:10.1111/j.1472-4642.2010.00671.x.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Singh, N.J., Grachev, Iu.A., Bekenov, A.B., Milner-Gulland, E.J. (2010) (2010). “Saiga antelope calving site selection is increasingly driven by human disturbance”. Biological Conservation. 143 (7): 1770–1779. doi:10.1016/j.biocon.2010.04.026.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Kuhl, A., Mysterud, A., Grachev, Iu.A., Bekenov, A.B., Ubushaev, B.S., Lushchekina, A.A., Milner-Gulland, E.J. (2009) (2009). “Monitoring population productivity in the saiga antelope”. Animal Conservation. 12 (4): 355–363. doi:10.1111/j.1469-1795.2009.00260.x.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Kuhl, A., Balinova, N., Bykova, E., Esipov, A., Arylov, Iu.A., Lushchekina, A.A., Milner-Gulland, E.J. (2009) (2009). “The role of saiga poaching in rural communities: Linkages between attitudes, socio-economic circumstances and behaviour”. Biological Conservation. 142 (7): 1442–1449. doi:10.1016/j.biocon.2009.02.009.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Kuhl, A., Mysterud, A., Erdnenov, G.I., Lushchekina, A.A., Grachev, Iu. A., Bekenov, A.B., Milner-Gulland, E.J. (2007) (2007). “The big spenders of the steppe: sex-specific maternal allocation and twinning in the saiga antelope”. Proceedings of the Royal Society B. 274 (1615): 1293–1299. doi:10.1098/rspb.2007.0038. PMC 2176182. PMID 17341456.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết).
  • Morgan, E.R., Medley, G.F., Torgerson, P.R., Shaikenov, B., and Milner-Gulland, E.J. (2007) (2007). “Parasite transmission in a migratory multiple host system”. Ecological Modelling. 200 (3–4): 511–520. doi:10.1016/j.ecolmodel.2006.09.002.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Kholodova, M.V., Milner-Gulland, E.J., Easton, A.J., Amgalan, L., Arylov, Iu., Bekenov, A., Grachev, Iu.A., Lushchekina, A.A., Ryder, O. (2006) (2006). “Mitochondrial DNA variation and population structure of the Critically Endangered saiga antelope Saiga tatarica”. Oryx. 40: 103–107. doi:10.1017/S0030605306000135.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Morgan, E.R., Lundervold, M., Medley, G.F., Shaikenov, B.S., Torgerson, P.R., Milner-Gulland, E.J. (2006) (2006). “Assessing risks of disease transmission between wildlife and livestock: the Saiga antelope as a case study”. Biological Conservation. 131 (2): 244–254. doi:10.1016/j.biocon.2006.04.012.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Morgan, E.R., Shaikenov, B., Torgerson, P.R., Medley, G.F., Milner-Gulland, E.J. (2005) (2005). “Helminths of saiga antelopes in Kazakhstan: Implications for conservation and livestock production”. Journal of Wildlife Diseases. 41 (1): 149–162. PMID 15827221.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Milner-Gulland, E.J., Bukreeva, O.M., Coulson, T.N., Lushchekina, A.A., Kholodova, M.V., Bekenov, A.B., Grachev, Iu.A. (2003) (2003). “Reproductive collapse in saiga antelope harems”. Nature. 422 (6928): 135. doi:10.1038/422135a. PMID 12634775.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Robinson, S., Milner-Gulland, E.J. (2003) (2003). “Political change and factors limiting numbers of wild and domestic ungulates in Kazakhstan”. Human Ecology. 31: 87–110. doi:10.1023/A:1022834224257.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Milner-Gulland, E.J., Kholodova, M.V., Bekenov, A.B., Bukreeva, O.M., Grachev, Iu.A., Amgalan, L., Lushchekina, A.A. (2001) (2001). “Dramatic declines in saiga antelope populations”. Oryx. 35 (4): 340–345. doi:10.1046/j.1365-3008.2001.00202.x.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)

Liên kết ngoài

vi:Linh dương Saiga