Đảo Antsiferov

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Antsiferov / Shirinki
Чиринкотан
志林規島 /
Hình ảnh đảo Antsiferov chụp từ vệ tinh của NASA
Địa lý
Vị tríBiển Okhotsk
Tọa độ50°12′B 154°59′Đ / 50,2°B 154,98°Đ / 50.20; 154.98
Quần đảoQuần đảo Kuril
Diện tích7 km2 (2,7 mi2)
Độ cao tương đối lớn nhất761 m (2.497 ft)
Hành chính
 Nga
Nhân khẩu học
Dân số0
Dân tộcAinu (trước đây)

Đảo Antsiferov (tiếng Nga: Остров Анциферова) còn được gọi là Shirinki (tiếng Nga: Ширинки; tiếng Nhật: 林島, Shirinki-tō) là một hòn đảo núi lửa không có người ở nằm trong chuỗi quần đảo phía bắc thuộc quần đảo Kuril nằm trong biển Okshotsk ở tây bắc Thái Bình Dương. Tên tiếng Nhật trước đây của hòn đảo có nguồn gốc từ tiếng Ainu nghĩa là "nơi của những ngọn sóng cao". Hòn đảo ở gần nhất là đảo Paramushir, nằm cách 15 km qua eo biển Lư Nhậm. Tên hiện tại của hòn đảo được nhà thám hiểm người Cossack Danila Antsiferov đặt, ông là người đầu tiên mô tả nó cùng với quần đảo Kuril phía Bắc khác vào đầu thế kỷ 18.

Địa chất học[sửa | sửa mã nguồn]

Antsiferov là một hòn đảo gần tròn với diện tích khoảng 6 km²[1]. Hòn đảo là một núi lửa dạng tầng với đường kính 4,25 km và với một đỉnh trung tâm (tiếng Nhật: 蓮華 岳; Renge-dake) với chiều cao 761 mét, được đánh dấu bằng một hõm chảo có đường kính 0,75 km. Hai mái nham thạch nằm gần các bức tường vi phạm, dường như có nguồn gốc tương đối muộn, mặc dù không có vụ phun trào núi lửa nào được quan sát thấy ở Antsiferov trong thời hiện đại. Phần lớn hòn đảo được bao phủ bởi đá bọt từ các mỏ trầm tích đá mạt vụn núi lửa.

Động vật[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu phía nam của Antsiferov là địa điểm của một trong năm trại nuôi sư tử biển Steller lớn (khoảng 600 con) trên Quần đảo Kuril. Bởi vì không có động vật săn mồi trên cạn, đây cũng là nơi trú ngụ của Hải âu Fulmar phương Bắc và những con nhạn đuôi chồn làm tổ trong các hốc dọc theo sườn dốc của nó. Các loài chim sống trên vách đá, như RissaUria lomvia cũng rất phong phú.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Antsiferov không có nơi cư trú vĩnh viễn trước khi tiếp xúc có sự tiếp xúc với châu Âu, nhưng đã được các bộ lạc Ainu ghé thăm vào mùa hè để săn bắn. Được tuyên bố bởi Đế quốc Nga, chủ quyền đã được chuyển cho Đế quốc Nhật Bản theo Hiệp ước Saint Petersburg cùng với phần còn lại của quần đảo Kuril. Hòn đảo này trước đây được quản lý như một phần của quận Shimushu thuộc phân khu Nemuro của tỉnh Hokkaidoaidō. Sau Thế chiến II, hòn đảo này nằm dưới sự kiểm soát của Liên Xô, và hiện được quản lý như một phần của tỉnh Sakhalin của Liên bang Nga. Hòn đảo hiện là một phần của nơi trú ẩn động vật hoang dã

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “International Kuril Island Project(IKIP)”. University of Washington Fish Collection or the respective authors. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2009.

Tư liệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Shirinki". Global Volcanism Program. Smithsonian Institution.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Gorshkov, G. S. Volcanism and the Upper Mantle Investigations in the Kurile Island Arc. Monographs in geoscience. New York: Plenum Press, 1970. ISBN 0-306-30407-4ISBN 0-306-30407-4
  • Krasheninnikov, Stepan Petrovich, and James Greive. The History of Kamtschatka and the Kurilski Islands, with the Countries Adjacent. Chicago: Quadrangle Books, 1963.
  • Rees, David. The Soviet Seizure of the Kuriles. New York: Praeger, 1985. ISBN 0-03-002552-4ISBN 0-03-002552-4
  • Takahashi, Hideki, and Masahiro Ōhara. Biodiversity and Biogeography of the Kuril Islands and Sakhalin. Bulletin of the Hokkaido University Museum, no. 2-. Sapporo, Japan: Hokkaido University Museum, 2004.