Allan Saint-Maximin

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Allan Saint-Maximin
Saint-Maximin thi đấu cho đội tuyển U-17 Pháp năm 2014
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Allan Irénée Saint-Maximin[1]
Ngày sinh 12 tháng 3, 1997 (27 tuổi)[2]
Nơi sinh Châtenay-Malabry, Pháp
Chiều cao 1,73 m[3]
Vị trí Tiền vệ cánh
Thông tin đội
Đội hiện nay
Al Ahli
Số áo 97
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
2003–2004 Verrières-le-Buisson
2004–2007 US Ris-Orangis
2007–2011 Boulogne-Billancourt
2011–2013 Saint-Étienne
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2013–2015 Saint-Étienne II 22 (7)
2013–2015 Saint-Étienne 12 (0)
2015–2017 Monaco 1 (0)
2015–2016Hannover 96 (mượn) 16 (1)
2016–2017Bastia (mượn) 34 (3)
2017–2019 Nice 64 (9)
2019–2023 Newcastle United 111 (12)
2023– Al Ahli 0 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2013 U-16 Pháp 11 (3)
2013–2014 U-17 Pháp 7 (4)
2016–2017 U-20 Pháp 7 (2)
2017–2019 U-21 Pháp 7 (0)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 28 tháng 8 năm 2022 (UTC)

Allan Irénée Saint-Maximin (sinh ngày 12 tháng 3 năm 1997) là cầu thủ bóng đá người Pháp thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho Al Ahli tại Giải Vô địch quốc gia Ả Rập Xê Út. Anh từng thi đấu cho các đội bóng Saint-Étienne, Monaco, Hannover 96, Bastia, NiceNewcastle United trước khi chuyển đến Al Ahli.

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Newcastle United[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 2 tháng 8 năm 2019, Saint-Maximin chuyển đến Newcastle United tại giải đấu Premier League theo hợp đồng có thời hạn 6 năm với phí chuyển nhượng ban đầu 16,5 triệu £ và có thể lên đến 20 triệu £.[4] Ngày 5 tháng 12 năm 2019, Saint-Maximin có bàn thắng đầu tiên cho Newcastle trong chiến thắng 2–0 trước Sheffield United tại Premier League.[5] Ngày 7 tháng 3 năm 2020, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Southampton tại Premier League.[6] Anh có tổng cộng 4 bàn thắng và 7 kiến tạo trong mùa giải đầu tiên thi đấu tại Premier League.[7]

Tại trận đấu vòng 3 Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2022–23 ngày 21 tháng 8 năm 2022, Saint-Maximin có màn trình diễn xuất sắc và có hai đường chuyền thành bàn trong trận hòa 3-3 với Manchester City.[8] Một tuần sau đó, pha vô lê từ ngoài vòng cấm địa ở phút 90 của anh đã cứu Newcastle khỏi trận thua trước Wolverhampton.[9]

Saint-Maximin có tổng cộng 4 mùa giải gắn bó cùng với Newcastle United, ghi được 13 bàn thắng cùng 21 pha kiến ​​tạo sau 124 trận.[10]

Al Ahli[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 30 tháng 7 năm 2023, Saint-Maximin đã chính thức trở thành cầu thủ của Al Ahli thi đấu tại Giải Vô địch quốc gia Ả Rập Xê Út với phí chuyển nhượng ước tính 23 triệu £.[11]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “FIFA U-20 World Cup Korea Republic 2017: List of Players: France” (PDF). FIFA. 11 tháng 6 năm 2017. tr. 5. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2019.
  2. ^ “Allan Saint-Maximin: Overview”. ESPN. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2022.
  3. ^ “Allan Saint-Maximin: Overview”. Premier League. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2022.
  4. ^ “Newcastle sign Allan Saint-Maximin from Nice and Jetro Willems on loan from Frankfurt”. Sky Sports. 2 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2022.
  5. ^ “Jonjo Shelvey races clear to clinch away win for Newcastle at Sheffield United”. The Guardian. 5 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2022.
  6. ^ “Southampton 0-1 Newcastle: Allan Saint-Maximin moves Magpies closer to safety”. Sky Sports. 7 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2023.
  7. ^ “Top 5 moments of Newcastle United's 2019-20 season”. Sportskeeda. 20 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2023.
  8. ^ “Haaland cứu Man City”. VnExpress. 22 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2023.
  9. ^ “Wolves 1-1 Newcastle: Allan Saint-Maximin's sensational volley rescues a point for Eddie Howe's side”. Sky Sports. 29 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2023.
  10. ^ “Al-Ahli chiêu mộ thành công Saint-Maximin”. Bóng Đá +. 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2023.
  11. ^ “Allan Saint-Maximin: Winger leaves Newcastle for Al Ahli in deal worth in the region of £23m”. Sky Sports. 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2023.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]