I-181 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm chị em I-176, một chiếc lớp Kaidai VII tiêu biểu
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 159
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Kure, Kure
Đặt lườn 11 tháng 11, 1941
Đổi tên I-81
Hạ thủy 2 tháng 5, 1942
Đổi tên I-181, 20 tháng 5, 1942
Hoàn thành 24 tháng 5, 1943
Số phận
Xóa đăng bạ 30 tháng 4, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu VII)
Trọng tải choán nước
  • 1.833 tấn Anh (1.862 t) (nổi)
  • 2.606 tấn Anh (2.648 t) (ngầm)
Chiều dài 105,5 m (346 ft 2 in)
Sườn ngang 8,25 m (27 ft 1 in)
Mớn nước 4,6 m (15 ft 1 in)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.000 nmi (15.000 km) ở tốc độ 16 kn (30 km/h; 18 mph) (nổi) [1]
  • 50 nmi (93 km) ở tốc độ 5 kn (9,3 km/h; 5,8 mph) (ngầm) [1]
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 86 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

I-181 (nguyên là Tàu ngầm số 159I-81) là một tàu ngầm tuần dương Lớp Kaidai thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, thực hiện hai chuyến tuần tra tại các vùng biển Australia, quần đảo Solomon cũng như tại khu vực Papua New Guinea, cho đến khi bị các xuồng phóng lôi PT boat Hoa Kỳ đánh chìm tại Papua New Guinea vào ngày 21 tháng 1, 1944.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp tàu ngầm Kaidai VII là phiên bản tàu ngầm tấn công tầm trung được phát triển dựa trên phân lớp Kaidai VI. Chúng có trọng lượng choán nước 1.862 tấn (1.833 tấn Anh) khi nổi và 2.648 tấn (2.606 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 105,5 m (346 ft 2 in), mạn tàu rộng 8,25 m (27 ft 1 in) và mớn nước sâu 4,6 m (15 ft 1 in). Con tàu có thể lặn sâu 80 m (262 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 86 sĩ quan và thủy thủ.[2]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất 4.000 mã lực phanh (2.983 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW).Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph) khi nổi[1] và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn.[1] Khi Kaidai VII di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 8.000 hải lý (15.000 km; 9.200 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 50 nmi (93 km; 58 mi) ở tốc độ 5 hải lý trên giờ (9,3 km/h; 5,8 mph).[1][3]

Lớp Kaidai VII có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả đều được bố trí trước mũi, và mang tổng cộng 12 ngư lôi. Vũ khi trên boong tàu thoạt tiên dự định bao gồm hai khẩu pháo phòng không 25 mm (1,0 in) Kiểu 96 nòng đôi, nhưng sau đó một hải pháo 12 cm (4,7 in) chống hạm thay chỗ cho một khẩu đội 25mm.[4]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Vũ trang Hải quân Bổ sung thứ tư năm 1939, nhưng nó chỉ được đặt lườn như Tàu ngầm số 159 tại Xưởng vũ khí Hải quân KureKure, Hiroshima vào ngày 11 tháng 11, 1941.[5][6] Sau đó con tàu được đổi tên thành I-81 trước khi được hạ thủy vào ngày 2 tháng 5, 1942,[2][5][6] và phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure,[6] rồi lại được đổi tên thành I-181 vào ngày 20 tháng 5, 1942.[5] Nó hoàn tất và nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào ngày 24 tháng 5, 1943.[2][5][6]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1943[sửa | sửa mã nguồn]

1944[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 6 tháng 1, 1944, I-181 bắt đầu chuyến đi tiếp vận thứ năm.[5][6] Nó chất dỡ hàng tiếp liệu tại Buka vào ngày hôm sau[6] rồi lên đường quay trở lại Rabaul, đến nơi vào ngày 9 tháng 1.[5][6] Với tư lệnh Đội tàu ngầm 22 cùng ban tham mưu trên tàu, I-181 lại khởi hành từ Rabaul vào ngày 13 tháng 1 cho chuyến đi tiếp vận thứ sáu, cùng với tàu ngầm Ro-104 hướng sang Gali, New Guinea.[5][6] Sau đó I-181 hoàn toàn mất tích.[6]

Bị mất[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàn cảnh I-181 bị mất vẫn chưa được xác định chắc chắn. Lực lượng Nhật Bản trú đóng tại Gali báo cáo nghe thấy một trận chiến tại eo biển Vitiaz ngoài khơi Gali vào chiều tối ngày 16 tháng 1, khi I-181 đối đầu với tàu khu trụcxuồng phóng lôi PT boat Hoa Kỳ, khiến I-181 trúng mìn sâu và đắm với tổn thất nhân mạng toàn bộ.[5][6] Một tấm ảnh được công bố rộng rãi, cho rằng xác tàu đắm của I-181 mắc cạn tại bờ biển Kelanoa Harbour, New Guinea; nhưng thực ra trong bức ảnh chỉ là một thùng tiếp liệu được kéo đi, bị các xuồng PT boat phá hủy trước đó vào ngày 24 tháng 12, 1943.[6] Một số nguồn cho rằng I-181 bị máy bay hải quân Hoa Kỳ đánh chìm tại eo biển St. George's giữa New IrelandNew Britain vào ngày 16 tháng 1.[6]

Lúc 23 giờ 00 ngày 18 tháng 1, xuồng PT boat PT-143 phát hiện một mục tiêu qua radar dọc bờ biển phía Nam New Britain, ở khoảng cách 27 nmi (50 km). Sau khi rút ngắn khoảng cách còn trong bối cảnh tầm nhìn kém, nó nhận định mục tiêu là một tàu ngầm lớp I-61.[7] Bị phát hiện, chiếc tàu ngầm lặn xuống né tránh, và PT-143 thả hai quả mìn sâu tấn công, nghe thấy một vụ nổ thứ ba nhưng không thấy chứng cứ đã gây hư hại cho mục tiêu. [7] Nó tiếp tục tìm kiếm trong phạm vi 5 nmi (9,3 km) quanh vị trí ban đầu cho đến 03 giờ 00 ngày 19 tháng 1.[7]

Lúc 03 giờ 01 phút ngày 19 tháng 1, đang khi tuần tra cách bờ biển New Guinea 3 nmi (5,6 km), các xuồng PT boat PT-329, PT-362PT-364 phát hiện mục tiêu qua radar nên tiếp cận để trinh sát, nhìn thấy một tàu ngầm lớn với sàn phẳng và không có hải pháo trên sàn tàu.[8] Khi các xuồng PT boat tiếp cận đến khoảng cách 4.500 yd (4,1 km), mục tiêu lặn xuống ẩn nấp.[8] Các xuồng PT boat lại phát hiện mục tiêu qua radar lúc 06 giờ 06 phút, và mục tiêu lại lặn xuống ở khoảng cách 2,75 nmi (5,09 km).[8] PT-364 thả một quả mìn sâu cách 4 hải lý (7,4 km; 4,6 mi) về phía Bắc và một quả nữa cách 3 hải lý (5,6 km; 3,5 mi) về phía Bắc nhằm tìm cách hướng chiếc tàu ngầm về phía PT-329PT-364 đang chờ đợi sẵn, nhưng họ sau đó mất dấu mục tiêu.[8]

Vào ngày 1 tháng 3, 1944, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-181 bị mất, với tổn thất nhân mạng toàn bộ 89 người trên tàu, tại khu vực Tây Nam New Guinea.[5][6] Tên nó được cho rút khỏi danh sách đăng bạ hải quân vào ngày 30 tháng 4, 1944.[5][6]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h Jentschura 1976, tr. 172
  2. ^ a b c Carpenter & Polmar 1986, tr. 105
  3. ^ Chesneau 1980, tr. 199
  4. ^ Bagnasco 1977, tr. 183, 186
  5. ^ a b c d e f g h i j “I-181 ex I-81 ex No-159”. ijnsubsite.com. 9 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ a b c d e f g h i j k l m n Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2 tháng 9 năm 2015). “IJN Submarine I-181: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ a b c Lidster, LT(jg) Allen Y. (20 tháng 1 năm 1944). “Report of Action With Enemy Submarine night of 18/19 January 1944 - Motor Torpedo Boat Squadron Eight”. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  8. ^ a b c d Everett, C.F. (23 tháng 1 năm 1944), Action Report, concerning two submarine contacts night of 20/21 January 1944 - Motor Torpedo Boat Squadron Twelve

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]