I-185 (tàu ngầm Nhật)

Tàu ngầm chị em I-176, một chiếc lớp Kaidai VII tiêu biểu
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 163
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka, Yokosuka
Đặt lườn 9 tháng 2, 1942 (như là chiếc I-85)
Đổi tên I-185, 20 tháng 5, 1942
Hạ thủy 16 tháng 9, 1943
Hoàn thành 23 tháng 9, 1943
Số phận Bị các tàu chiến Hoa Kỳ đánh chìm gần Saipan, 22 tháng 6, 1944
Xóa đăng bạ 10 tháng 9, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu VII)
Trọng tải choán nước
  • 1.833 tấn Anh (1.862 t) (nổi)
  • 2.606 tấn Anh (2.648 t) (ngầm)
Chiều dài 105,5 m (346 ft 2 in)
Sườn ngang 8,25 m (27 ft 1 in)
Mớn nước 4,6 m (15 ft 1 in)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.000 nmi (15.000 km) ở tốc độ 16 kn (30 km/h; 18 mph) (nổi) [1]
  • 50 nmi (93 km) ở tốc độ 5 kn (9,3 km/h; 5,8 mph) (ngầm) [1]
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 86 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

I-185 (nguyên mang tên I-85) là một tàu ngầm tuần dương Lớp Kaidai thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các khu vực Trung tâm và Tây Nam Thái Bình Dương trước khi bị các tàu khu trục USS Newcomb (DD-586)tàu quét mìn USS Chandler (DMS-9) đánh chìm gần Saipan vào ngày 22 tháng 6, 1944.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp tàu ngầm Kaidai VII là phiên bản tàu ngầm tấn công tầm trung được phát triển dựa trên phân lớp Kaidai VI. Chúng có trọng lượng choán nước 1.862 tấn (1.833 tấn Anh) khi nổi và 2.648 tấn (2.606 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 105,5 m (346 ft 2 in), mạn tàu rộng 8,25 m (27 ft 1 in) và mớn nước sâu 4,6 m (15 ft 1 in). Con tàu có thể lặn sâu 80 m (262 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 86 sĩ quan và thủy thủ.[2]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất 4.000 mã lực phanh (2.983 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW).Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph) khi nổi[1] và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn.[1] Khi Kaidai VII di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 8.000 hải lý (15.000 km; 9.200 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 50 nmi (93 km; 58 mi) ở tốc độ 5 hải lý trên giờ (9,3 km/h; 5,8 mph).[1][3]

Lớp Kaidai VII có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả đều được bố trí trước mũi, và mang tổng cộng 12 ngư lôi. Vũ khi trên boong tàu thoạt tiên dự định bao gồm hai khẩu pháo phòng không 25 mm (1,0 in) Kiểu 96 nòng đôi, nhưng sau đó một hải pháo 12 cm (4,7 in) chống hạm thay chỗ cho một khẩu đội 25mm.[4]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm số 163 được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Vũ trang Hải quân Bổ sung thứ tư năm 1939, nhưng nó chỉ được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân YokosukaYokosuka vào ngày 9 tháng 2, 1942.[5][6] Nó được đổi tên thành I-85, rồi sau đó thành I-185 vào ngày 20 tháng 5, 1942 [5][6] trước khi được hạ thủy vào ngày 16 tháng 9, 1942,[5][6] và nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào ngày 23 tháng 9, 1943.[2][5][6]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1943[sửa | sửa mã nguồn]

1944[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 16 tháng 6, 1944, I-185 được lệnh hủy bỏ chuyến đi tiếp vận để cùng các tàu ngầm I-5, I-6, I-41I-84, bố trí tại Trung tâm Thái Bình Dương cách 300 nmi (560 km) về phía Đông quần đảo Mariana để lập hàng rào phòng ngự.[6] I-185 được sắp xếp vị trí tuần tra phía cực Bắc hàng rào này. Trận chiến biển Philippine diễn ra trong các ngày 2020 tháng 6 đã gây ra tổn thất nặng cho không lực Hải quân Nhật Bản.[6]

Bị mất[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc 09 giờ 03 phút ngày 22 tháng 6, tàu khu trục Hoa Kỳ USS Newcomb (DD-586), vốn đang trong vai trò soái hạm của lực lượng hộ tống một đoàn tàu vận tải chuyển quân đến tăng viện cho Saipan, bắt được tín hiệu một tàu ngầm.[6] Nó tấn công bằng mìn sâu, và sau đó mất tín hiệu.[6] Tàu quét mìn cao tốc USS Chandler (DMS-9) tham gia vào việc truy lùng, tấn công với một lượt mìn sâu lúc 10 giờ 23 phút, và phát hiện dầu diesel trồi lên mặt nước.[6] Newcomb tiến hành thêm một lượt tấn công khác mà không mang lại kết quả rõ rệt, nhưng đợt tấn công cuối cùng của lúc 11 giờ 44 phút đem đến một tiếng nổ lớn dưới nước, và sau đó nhiều mảnh vỡ, gỗ và dầu diesel trồi lên mặt nước tại tọa độ 15°50′B 145°08′Đ / 15,833°B 145,133°Đ / 15.833; 145.133,[5][6] khẳng định I-185 đã bị phá hủy.[5][6]

Vào cuối ngày 22 tháng 6, đô đốc Owada ra lệnh cho các tàu ngầm rút lui khỏi khu vực Mariana, nhưng I-185 đã không hồi đáp. Vào ngày 12 tháng 7, 1944, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-185 bị mất với tổn thất nhân mạng toàn bộ 95 người trên tàu, tại khu vực phụ cận Saipan.[5][6] Tên nó được cho rút khỏi danh sách đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 9, 1944.[5][6]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h Jentschura 1976, tr. 172
  2. ^ a b Carpenter & Polmar 1986, tr. 105
  3. ^ Chesneau 1980, tr. 199
  4. ^ Bagnasco 1977, tr. 183, 186
  5. ^ a b c d e f g h “I-185 ex I-85 ex No-163”. ijnsubsite.com. 9 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ a b c d e f g h i j k l m Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2 tháng 9 năm 2015). “IJN Submarine I-185: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]