Mariusz Treliński

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mariusz Treliński
Treliński năm 2005
Sinh(1962-03-28)28 tháng 3, 1962
Warszawa, Ba Lan
Học vịTrường Điện ảnh Quốc gia Łódź
Nghề nghiệpđạo diễn điện ảnh, giám đốc nhà hát opera
Năm hoạt động1987-nay

Mariusz Treliński (sinh ngày 28 tháng 3 năm 1962, Warszawa) là đạo diễn điện ảnh, giám đốc nhà hát opera người Ba Lan, đồng thời là giám đốc nghệ thuật của Nhà hát Lớn Warszawa.

Cuộc đời và sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Mariusz Treliński theo học ngành đạo diễn điện ảnh tại Trường Điện ảnh Quốc gia Łódź và tốt nghiệp năm 1986. Bộ phim đầu tay do ông đạo diễn mang tên Zad wielkiego wieloryba, kịch bản do ông và Janusz Wróblewski viết. Phim điện ảnh tiếp theo Pożegnanie jesieni (1990), chuyển thể từ tiểu thuyết của Stanisław Ignacy Witkiewicz, được trình chiếu tại Liên hoan phim Quốc tế Venice lần thứ 47 và giành giải thưởng cho hạng mục phim đầu tay hay nhất. Năm 1995, ông đạo diễn bộ phim Łagodna. Bộ phim này được trao Giải thưởng Nhà báo tại Liên hoan phim Gdynia lần thứ 20. Năm 2000, ông đạo diễn bộ phim Egoiści ("Những người theo chủ nghĩa vị tha").[1]

Năm 1995, tại Lễ hội mùa thu Warszawa do Nhà hát lớn Warszawa tổ chức, ông ra mắt vở opera đầu tiên mang tên Wyrywacz serc ("Kẻ đánh cắp trái tim") của Elżbieta Sikora dựa trên tác phẩm của Boris Vian. Năm 1999, ông đạo diễn vở Madama Butterfly của Puccini.. Năm 2001, theo yêu cầu của Placido Domingo, vở Madama Butterfly tổ chức và trình diễn tại Washington Opera.[2][3]

Treliński được trao Giải thưởng Witkacy - Giải thưởng của Hội nhà phê bình năm 2006. Từ tháng 5 năm 2005 đến tháng 8 năm 2006, ông là giám đốc nghệ thuật Nhà hát Lớn Warszawa. Năm 2006, ông đạo diễn một vở opera La bohème của Puccini. Năm 2007, ông đạo diễn vở King Roger của Karol Szymanowski tại Nhà hát Opera Wrocław. Tháng 3 năm 2011, ông tái bổ nhiệm làm giám đốc Nhà hát Lớn Warszawa.[2]

Năm 2016, tác phẩm Tristan und Isolde của Wagner do ong đạo diễn đã mở đầu mùa Metropolitan Opera ở New York.[4] Năm 2018, ông giành được Giải thưởng Opera Quốc tế.[5]

Đời sống riêng tư[sửa | sửa mã nguồn]

Ông kết hôn với Monika Donner, (sinh ra con trai Piotr), nhưng họ đã ly hôn.

Năm 2010 và 2015, ông trở thành một trong những thành viên của ủy ban ủng hộ Bronisław Komorowski trong cuộc bầu cử tổng thống Ba Lan.

Các tác phẩm chọn lọc[sửa | sửa mã nguồn]

Phim[sửa | sửa mã nguồn]

  • Phim o pankach (1983)
  • Zad wielkiego wieloryba (1987)
  • Pożegnanie jesieni (1990)
  • Łagodna (1995)
  • Egoiści (2000)

Opera[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn:[6]

Sản phẩm sân khấu[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Mariusz Treliński”. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.
  2. ^ a b “Mariusz Treliński”. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.
  3. ^ “Mariusz Treliński Artistic Director”. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.
  4. ^ “Mariusz Treliński”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.
  5. ^ “International Opera Award Goes to Mariusz Treliński”. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.
  6. ^ “Mariusz Treliński”. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.