Pomacanthus arcuatus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Pomacanthus arcuatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Pomacanthidae
Chi (genus)Pomacanthus
Loài (species)P. arcuatus
Danh pháp hai phần
Pomacanthus arcuatus
(Linnaeus, 1758)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Chaetodon arcuatus Linnaeus, 1758
  • Chaetodon lutescens Bonnaterre, 1788
  • Chaetodon quinquecinctus Cuvier, 1829
  • Pomacanthus balteatus Cuvier, 1831
  • Pomacanthus cingulatus Cuvier, 1831
  • Chaetodon littoricola Poey, 1868

Pomacanthus arcuatus là một loài cá biển thuộc chi Pomacanthus trong họ Cá bướm gai. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1758.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh arcuatus trong tiếng Latinh có nghĩa là "cong", hàm ý đề cập đến các dải sọc cong màu vàng trên cơ thể cá con[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

P. arcuatus có phạm vi phân bố rộng rãi ở Tây Đại Tây Dương. Từ bang New York, loài này được ghi nhận dọc theo bờ biển Đông Hoa Kỳ, trải dài trên khắp vịnh Méxicobiển Caribe, về phía nam đến bang Rio de Janeiro (Brasil); P. arcuatus cũng đã được biết đến ở Bermuda[1][3].

P. arcuatus sống gần các rạn san hô và các bãi đá ngầm ở độ sâu đến ít nhất là 30 m[1]. P. arcuatus không tỏ ra sợ hãi khi các thợ lặn tiếp cận chúng[4].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

P. arcuatus có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 60 cm[3]. P. arcuatus có thân dẹt, hình bầu dục màu nâu xám, trừ phần mõm có màu trắng. Vảy trên thân lốm đốm đen. Vây hậu môn và vây lưng có thể phát triển dài vượt qua vây đuôi, có viền mảnh màu xanh lam óng. Vây ngực có màu vàng nhạt. Vây đuôi có rìa sau màu trắng mờ. Cá con có màu đen với 5 dải sọc màu vàng: dải thứ nhất bao quanh mõm và dải cuối nằm trên cuống đuôi, ba dải giữa nằm cách nhau ở hai bên thân (giống với cá con của Pomacanthus paru)[4][5].

Số gai vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 31–33; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 23–25[3].

Sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn chủ yếu của P. arcuatushải miên (bọt biển), nhưng chúng cũng bổ sung cả tảo, cỏ biển, nhiều loài thủy sinh không xương sống (như động vật hình rêu, san hô mềmhải tiêu) vào chế độ ăn của mình[3]. Cá con còn ăn cả những giáp xác ký sinh mà chúng làm vệ sinh từ những loài cá khác[4].

Sinh sản[sửa | sửa mã nguồn]

P. arcuatus thường sống đơn độc và ghép cặp khi bước vào giai đoạn sinh sản, nhưng cũng có khi hợp thành một nhóm nhỏ[1]. Thời điểm sinh sản diễn ra từ tháng 4 và kéo dài đến tháng 9. Chúng đã được quan sát là tập trung trên các mỏm đá ngầm ở vùng nước sâu từ sáng sớm. Những cặp P. arcuatus sẽ thực hiện màn tán tỉnh bằng cách rượt đuổi nhau trong thời gian ngắn. Nếu những cá thể đơn độc đến gần các cặp đôi, chúng sẽ bị đuổi đi ngay[4].

Các cặp đôi sau đó bơi chậm dần rồi trồi lên các cột nước, đưa bụng lại gần nhau và bắt đầu phóng trứng và tinh trùng. Trong mỗi đợt sinh sản, khoảng 25.000–75.000 quả trứng được phóng ra. Sau đó, các cặp đôi tách ra và quay trở lại đáy biển, và lặp đi lặp lại hành vi giao phối này nhiều lần[4].

Trứng có dạng hình cầu, trong suốt, nở khoảng 15–20 giờ sau khi được thụ tinh. Cá bột đạt kích thước khoảng 1,5 cm khi chúng bắt đầu bơi đến định cư trên các rạn san hô[4].

Tuổi thọ[sửa | sửa mã nguồn]

Qua việc kiểm tra sỏi tai, độ tuổi lớn nhất được ước tính ở P. arcuatus là 24 năm.[6]

Lai tạp[sửa | sửa mã nguồn]

P. arcuatusP. paru là hai loài bản địa của Tây Đại Tây Dương. Cá thể lai giữa chúng đã được báo cáo bởi Moe (1976), tuy nhiên đó là một cá thể được lai tạo trong môi trường thí nghiệm[7]. Điều này cho thấy rằng, P. paruP. arcuatus đều có khả năng lai tạp với nhau ở ngoài tự nhiên[7].

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

P. arcuatus là một loài được đánh bắt và xuất khẩu khá phổ biến trong ngành buôn bán cá cảnh[1]. Bên cạnh đó, P. arcuatus còn được xem là một loài hải sản, và thịt của chúng được đánh giá là rất ngon. Loài này cũng đã được nhân giống nuôi nhốt thành công[3].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e R. Pyle; R. Myers; L. A. Rocha; M. T. Craig (2010). Pomacanthus arcuatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165887A6157789. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165887A6157789.en. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order ACANTHURIFORMES (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ a b c d e Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2021). Pomacanthus arcuatus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2021.
  4. ^ a b c d e f Cathleen Bester (biên tập). “Gray Angelfish – Pomacanthus arcuatus. Florida Museum. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  5. ^ “Species: Pomacanthus arcuatus, Grey angelfish”. Shorefishes of the Greater Caribbean online information system. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  6. ^ Steward, Cheree A.; DeMaria, Karen D.; Shenker, Jonathan M. (2009). “Using otolith morphometrics to quickly and inexpensively predict age in the gray angelfish (Pomacanthus arcuatus)”. Fisheries Research. 99 (2): 123–129. doi:10.1016/j.fishres.2009.05.011. ISSN 0165-7836.
  7. ^ a b Eugene K. Balon; Michael N. Bruton; David L. G. Noakes biên tập (2012). Women in ichthyology: an anthology in honour of ET, Ro and Genie. Nhà xuất bản Springer Science & Business Media. tr. 136. ISBN 978-9401101998.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)