Sargocentron vexillarium

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sargocentron vexillarium
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Holocentriformes
Họ (familia)Holocentridae
Chi (genus)Sargocentron
Loài (species)S. vexillarium
Danh pháp hai phần
Sargocentron vexillarium
(Poey, 1860)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Holocentrum vexillarium Poey, 1860
  • Holocentrus brachypterus Poey, 1865
  • Holocentrum sicciferum Cope, 1871
  • Holocentrum riparium Poey, 1875

Sargocentron vexillarium là một loài cá biển thuộc chi Sargocentron trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1860.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh vexillarium trong tiếng Latinh có nghĩa là “mang cờ hiệu, quân hàm”, hàm ý có lẽ đề cập đến gai vây lưng của loài cá có một vạch đen sau mỗi gai.[2]

Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Dornburg và cộng sự (2012) đã đề xuất chuyển S. vexillarium sang chi Neoniphon dựa vào phát sinh chủng loại phân tử của họ,[3] tuy nhiên điều này vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi.[1] Trang Catalog of FishesFishBase thì đã xem S. vexillariumđồng nghĩa của Neoniphon vexillarium.[4][5]

Phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

S. vexillarium có phân bố ở Tây Đại Tây Dương, từ Bermuda và bang Florida (Hoa Kỳ) băng qua một phần vịnh México (Florida Keys ngược lên phía bắc đến vịnh Tampa, cụm bãi ngầm Flower Garden, và từ bang Veracruz dọc theo bán đảo Yucatán) và khắp biển Caribe.[1] Đây là loài cá hồng phổ biến nhất ở vùng Tây Ấn.[6]

Môi trường sống của S. vexillarium là trên các rạn san hô gần bờ và vũng thủy triều, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 20 m.[5]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. vexillarium là 18 cm.[5] Loài này có màu đỏ nâu với các sọc dày ánh bạc dọc hai bên lườn. Gai vây lưng màu đỏ. Vây lưng mềm, vây hậu môn và đuôi màu vàng hoặc đỏ, trong mờ; gai trước của vây hậu môn và vây bụng trắng; vây đuôi có viền trên và dưới màu đỏ. Gốc vây ngực đen ở cá thể nhỏ.

Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 12–14; Số gai ở vây hậu môn: 4 (gai thứ 3 dài nhất); Số tia vây ở vây hậu môn: 8–10; Số tia vây ở vây ngực: 14–16; Số vảy đường bên: 41–45.[7]

Sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của S. vexillarium chủ yếu là cua, nhưng cũng ăn cả tômchân bụng.[6]

Giá trị[sửa | sửa mã nguồn]

S. vexillarium có tầm quan trọng thương mại nhỏ trong ngành buôn bán cá cảnh.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d Moore, J.; Polanco Fernandez, A.; Russell, B. & McEachran, J. D. (2015). Sargocentron vexillarium. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2015: e.T16449034A16509952. doi:10.2305/IUCN.UK.2015-4.RLTS.T16449034A16509952.en. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2019). “Order Holocentriformes”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ Dornburg, Alex; Moore, Jon A.; Webster, Rachel; Warren, Dan L.; Brandley, Matthew C.; Iglesias, Teresa L.; Wainwright, Peter C.; Near, Thomas J. (2012). “Molecular phylogenetics of squirrelfishes and soldierfishes (Teleostei: Beryciformes: Holocentridae): reconciling more than 100 years of taxonomic confusion”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 65 (2): 727–738. doi:10.1016/j.ympev.2012.07.020. ISSN 1095-9513. PMID 22884866.
  4. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Holocentrum vexillarium. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
  5. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Sargocentron vexillarium trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  6. ^ a b W. D. Anderson (2002). “Holocentridae” (PDF). Trong Kent E. Carpenter (biên tập). The living marine resources of the Western Central Atlantic. Volume 2 (part 1). Roma: FAO. tr. 1202. ISBN 92-5-104826-6.
  7. ^ D. Ross Robertson & J. Van Tassell (2019). “Species: Neoniphon vexillarium, Dusky squirrelfish”. Shorefishes of the Greater Caribbean: online information system. Smithsonian Tropical Research Institute.