Vì tự do của chúng tôi và của bạn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cờ của Khởi nghĩa tháng Mười một 1831
một phiên bản bằng chữ cái Cyrillic, bằng tiếng Nga
Đài tưởng niệm Lính Ba Lan và những người chống Phát xít Đức 1939-1945 ở Berlin.
Khẩu hiệu: "Vì tự do của chúng tôi và của các bạn" tại đài kỷ niệm ở Jerusalem tưởng nhớ những người lính Do Thái trong Quân đội Ba Lan chống lại Đức Quốc xã 1939-1945.

Vì tự do của chúng tôi và của bạn (tiếng Ba Lan: Za naszą i waszą wolność) là một trong những tiêu ngữ không chính thức của Ba Lan. Thường gắn liền với khoảng thời gian khi những Người lính Ba Lan, Lưu vong trong giai đoạn Ba Lan bị chia cắt, tham gia đấu tranh cho Chủ nghĩa ly khai trên toàn thế giới.[1][2] Được nhìn thấy lần đầu tiên trong một cuộc biểu tình yêu nước để kỷ niệm Khởi nghĩa tháng Chạp, được tổ chức ngày 25 tháng 1 năm 1831 ở Warszawa 1, nhiều khả năng tác giả là Joachim Lelewel.[3] Ban đầu, khẩu hiệu được viết bằng tiếng Ba Lan và Nga, và để nhấn mạnh rằng chiến thắng của Khởi nghĩa tháng Chạp cũng đồng nghĩa với tự do cho Ba Lan. Khẩu hiệu gọn lại theo thời gian; ban đầu là 'Nhân danh Thiên Chúa, vì tự do của chúng tôi và của bạn' ('W imię Boga za Naszą i Waszą Wolność'). Băng rôn gốc được lưu giữ trong bộ sưu tập của Bảo tàng quân đội Ba Lan ở Warszawa.

Tiêu ngữ trong cách mạng và lịch sử kháng chiến của thế kỷ 19[sửa | sửa mã nguồn]

Một trong những ví dụ nổi bật đầu tiên của việc người Ba Lan dùng khẩu hiệu và ủng hộ các dân tộc khác đấu tranh giành tự do bên cạnh việc đấu tranh cho chính nghĩa của Ba Lan là Tadeusz KościuszkoCasimir Pulaski là những người đều chiến đấu cho người Mỹ trong Chiến tranh giành độc lập Mỹ (1775–1783). Kosciuszko sau đó quay trở về Ba Lan dẫn đầu cuộc nổi dậy chống lại nước Nga và việc phân chia Ba Lan do Nga, Phổ và Áo gây ra. Pulaski trước đó cũng đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ảnh hưởng của người Nga ở Ba Lan và hy sinh trong trận đánh với quân đội Anh ở Georgia vào năm 1779. Khẩu hiệu sớm trở nên phổ biến và trở thành một trong những tiêu chuẩn quân sự thường thấy nhất trong thời gian Khởi nghĩa tháng Mười một (1830–1831).[4] Trong cuộc chiến chống lại nước Nga, khẩu hiệu biểu thị rằng chiến thắng của Ba Lan cũng có nghĩa là tự do cho những các dân tộc Nga và rằng cuộc khởi nghĩa không chỉ nhằm vào nước Nga mà còn nhắm vào chế độ chuyên quyền (despotism) của Sa hoàng.[5] Sau thất bại của cuộc nổi dậy, khẩu hiệu đã được nhiều đơn vị quân đội Ba Lan do những người tị nạn thành lập ở nước ngoài sử dụng. Trong số này có đơn vị của Józef Bem mà văn bản đặc trưng bằng cả tiếng Ba Lantiếng Hungary trong Cách mạng Hungary 1848và bất cứ nơi nào mà người Ba Lan chiến đấu trong thời gian Cách mạng 1848.[6][7][8]

Sau khi Khởi nghĩa 1863–1864 bất thành ở Ba Lan, Belarus, Litva và Ukraina, những người tích cực tham gia trong phong trào đã bị Sa hoàng Nga đày đi Đông Siberia. Một số người Ba Lan đã thực hiện một âm mưu và sau đó nổi loạn vào tháng 6 năm 1866. Họ có riêng cờ hiệu của mình với tiêu ngữ được viết lên trên đó.[cần dẫn nguồn]

Thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thời gian Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921), khẩu hiệu được chính phủ Xô Viết sử dụng, tự xem họ là những người đấu tranh cho quyền lợi của những người công nhân và nông dân Ba Lan chống lại những gì được gọi là chính phủ địa chủ và các tư bản Ba Lan.[cần dẫn nguồn]

Tiêu ngữ cũng được Các Tổng Liên đoàn lao động sử dụng giữa các thành viên của Tổ chức Chiến đấu Do Thái, những người lãnh đạo và đấu tranh trong Khởi nghĩa Ghetto Warszawa.[9]

Tiêu ngữ cũng được Các lực lượng vũ trang Ba Lan sử dụng ở phía Tây trong chiến đấu chống Đức quốc xã (1939-1945).

Tây Ban Nha[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1956, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan đã lập nên giải thưởng 'Za wolność waszą i naszą' dành cho các thành viên của Lữ đoàn Quốc tế CL ('Dąbrowszczacy'), một phần của Lữ đoàn Quốc tế ủng hộ các đơn vị Quân đội Cộng hòa trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Khẩu hiệu của Lữ đoàn Dabrowszczacy là 'Za wolność waszą i naszą'.[cần dẫn nguồn]

Tiêu ngữ ở Liên Xô và Nga[sửa | sửa mã nguồn]

Băng rôn của những người biểu tình ở Quảng trường Đỏ, ngày 25 tháng 8 năm 1968.
Giải thưởng 'Za wolność waszą i naszą' (tướng cộng sản Karol Świerczewski)

Khẩu hiệu tương đương (tiếng Nga: За вашу и нашу свободу Za vashu i nashu svobodu) đã rất phổ biến trong phong trào phản đối Xô Viết sau sự kiện lịch sử những người biểu tình ở Quảng trường Đỏ nhằm ủng hộ Mùa xuân Praha vào ngày 25 tháng 8 năm 1968.[10][11]

Khẩu hiệu này cũng đã được dùng trong biểu tình tại Quảng trường Đỏ ngày 24 tháng 8 năm 2008 [12] [13] [14] và ngày 25 tháng 8 năm 2013,[15] cả hai cuộc biểu tình đều bị cảnh sát Nga đàn áp. [16]

Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Thường được viện dẫn trong những diễn văn chính thức, gồm có bài phát biểu của Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush về sự trợ giúp của Ba Lan trong cuộc chiến chống lại chế độ Saddam Hussein.[17][18]

Sách[sửa | sửa mã nguồn]

Khẩu hiệu cũng được sử dụng như là tựa đề của hàng loạt sách bằng tiếng Ba LanTiếng Anh, chẳng hạn như For your freedom and ours: The Polish Armed Forces in the Second World War (2003) (tạm dịch: Vì tự do của bạn và của chúng tôi: Các lực lượng vũ trang Ba Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai), For Your Freedom and Ours: The Kosciuszko Squadron – Forgotten Heroes of World War II (2003) (tạm dịch: Vì Tự do Của Bạn và Của Chúng tôi: Đội quân Kosciuszko - Những người hùng bị quên lãng của Chiến tranh thế giới thứ hai) hay For Your Freedom and Ours: Casimir Pulaski, 1745–1779 (2004) (tạm dịch: Vì Tự do Của Bạn và Của Chúng tôi: Casimir Pulaski, 1745–1779).

Cho đến nay, chính sách đối ngoại và ngoại giao của Ba Lan được dẫn lối với niềm tin rằng nhiệm vụ của Ba Lan là ủng hộ đúng đắn cho Quyền tự quyết, chính phủ dân chủ và tôn trọng Nhân quyền ở các quốc gia khác.[19]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. Một vài nguồn tài liệu (chẳng hạn như [1], [2], [3]) chỉ ra rằng khẩu hiệu có thể đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 18 và được Tadeusz Kościuszko sử dụng trong cuộc Nổi dậy Kościuszko. Đây có lẽ là một sai lầm trên cơ sở liên kết khẩu hiệu năm 1831 - trở nên phổ biến với các nhà cách mạng Ba Lan với một trong số những người nổi tiếng đời đầu trong số họ. Karma Nabulsi đưa ra một giải thích khả dĩ hơn: Kościuszko đã sử dụng cụm từ "Vì tự do và [cả] của bạn" ("Za naszą wolność i waszą"), Lelewel đã sắp xếp lại thành "Vì tự do của bạn và của chúng tôi", một biến thể trở nên phổ biến hơn và thường được lẫn lộn với những người tiền nhiệm của nó.[20]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Lonnie R. Johnson, Central Europe: Enemies, Neighbors, Friends, Oxford University Press, 1996, ISBN 0-19-510071-9, Google Print, p.127-128
  2. ^ Hubert Zawadzki, Jerzy Lukowski, A Concise History of Poland, Cambridge University Press, 2001, ISBN 0-521-55917-0, Google Print, p.145
  3. ^ Brock, Peter; Stanley, John D.; Wrobel, Piotr; Wróbel, Piotr (tháng 1 năm 2006). Nation and history: Polish... – Peter Brock, John D. Stanley, Piotr Wróbel – Google Books. ISBN 9780802090362. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
  4. ^ Auer, Stefan (ngày 22 tháng 1 năm 2004). Liberal nationalism in Central Europe – Stefan Auer – Google Books. ISBN 9780203561294. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
  5. ^ Davies, Norman (2005). God's Playground: 1795 to the present – Norman Davies – Google Books. ISBN 9780231128193. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
  6. ^ Gods, Heroes, & Legends
  7. ^ Dieter Dowe, Europe in 1848: revolution and reform, Berghahn Books, 2001, ISBN 1-57181-164-8, Google Print, p.180
    While it is often and quite justifiably remarked that there was hardly a barricade or battlefield in Europe between 1830 and 1870 where no Poles were fighting, this is especially true for the revolution of 1848/1849.
  8. ^ Bismarck and the Foundation of the German Empire. James Wycliffe Headlam 1899.
    In those days the Poles were to be found in every country in Europe, foremost in fighting on the barricades; they helped the Germans to fight for their liberty, and the Germans were to help them to recover independence. In 1848, Mierosławski had been carried like a triumphant hero through the streets of Berlin; the Baden rebels put themselves under the leadership of a Pole, and it was a Pole who commanded the Viennese in their resistance to the Austrian army; a Pole led the Italians to disaster on the field of Novara
  9. ^ Dallas, Gregor (2005). 1945: the war that never ended – Gregor Dallas – Google Books. ISBN 0300119887. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
  10. ^ Boobbyer, Philip (2005). Conscience, dissent and reform in... – Philip Boobbyer – Google Books. ISBN 9780415331869. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
  11. ^ Horvath, Robert (tháng 2 năm 2005). The legacy of Soviet dissent... – Robert Horvath – Google Books. ISBN 9780203412855. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
  12. ^ I.Vasunin, E.Kostuchenko, A.Kondrawheva. Civil activists celebrated the jubilee of the protest against occupation of Czechozolvakia by Soviet troops. Novaya Gaseta, N63, ngày 28 tháng 8 năm 2008. (in Russian); “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2008.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  13. ^ Documentary film of the demonstration at the Red Square of ngày 25 tháng 8 năm 2008: https://www.youtube.com/watch?v=A-B9ie-aFMM&NR=1
  14. ^ Youth Human Right News, 24 Aug 2008: "again they try to convince us, that we are surrounded by enemies". (in Russian), http://yhrm.org/news/archives/08_2008/?vw=909 Lưu trữ 2011-10-05 tại Wayback Machine
  15. ^ “На Красной площади задержаны десять человек”. Lenta.ru. ngày 25 tháng 8 năm 2013.
  16. ^ For your freedom and ours. (in Russian) NewTimes, ngày 30 tháng 8 năm 2008, “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2008.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  17. ^ “General Pulaski Memorial Day, 2003”. Georgewbush-whitehouse.archives.gov. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
  18. ^ “President Bush Speaks to Faculty and Students of Warsaw University”. Georgewbush-whitehouse.archives.gov. ngày 15 tháng 6 năm 2001. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
  19. ^ Marcin Zaborowski, David H Dunn, Poland: A New Power in Transatlantic Security, Routledge, 2003, ISBN 0-7146-5552-X, Google Print, p.25
  20. ^ Nabulsi, Karma (ngày 28 tháng 10 năm 1999). Traditions of war: occupation... – Karma Nabulsi – Google Books. ISBN 9780199279470. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.