Phạm Xuân Chiểu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do CommonsDelinker (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 14:03, ngày 9 tháng 4 năm 2019 (Thay tập tin Flag_of_the_South_Vietnamese_Army.jpg bằng tập tin Flag_of_the_Army_of_the_Republic_of_Vietnam.jpg (được thay thế bởi CommonsDelinker vì lí do: File renamed: typo)). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

PHẠM XUÂN CHIỂU
Sinh20 tháng 11 năm 1920
Yên Mô, Ninh Bình, Liên bang Đông Dương
Mất7 tháng 8 năm 2018
Maryland, Hoa Kỳ
Thuộc Quân đội VNCH
Quân chủng Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1946-1965
Quân hàm Trung tướng
Đơn vị Cảnh sát Quốc gia
Bộ Tổng Tham mưu
TTHL Quang Trung
Đại học Quân sự
Chỉ huy QĐ Liên hiệp Pháp
Quân đội Quốc gia
Quân đội VNCH
Công việc khác Đại sứ tại Nam Hàn[1]

Phạm Xuân Chiểu (1920-2018) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Lục quân của Việt Nam Quốc dân đảng được mở ra ở vùng Tây Bắc miền Bắc Việt Nam, huấn luyện người Việt trong các đảng phái để phục vụ cho các lực lượng kháng chiến. Sau có một số gia nhập vào Quân đội Liên hiệp Pháp. Trong thời gian tại ngũ ông luôn được giao đảm trách những chức vụ liên quan đến tham mưu. Nên có thể xem lĩnh vực tham mưu là chuyên môn của ông. Ông cũng là một trong số ít sĩ quan được thăng cấp tướng ở thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa (Thiếu tướng đầu năm 1957). Điều này chứng tỏ bản thân ông được Tổng thống Ngô Đình Diệm ưu ái.[2] Tuy nhiên, cuộc Đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 ông lại là một thành viên trong nhóm tướng lĩnh cầm đầu.

Tiểu sử & binh nghiệp

Ông sinh vào 20 tháng 11 năm 1920, trong một gia đình điền chủ khá giả tại làng Nộn Khê, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Ông học Trung học Đệ nhất và Đệ nhị cấp tại Ninh Bình và Nam Định.[3] Năm 1941, ông tốt nghiệp Trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part). Sau đó ông lên Hà Nội thi vào Đại học và đã học đến năm thứ 2 ở trường Đại học Y khoa Hà Nội.

Quân đội Liên hiệp Pháp

Cuối năm 1945, ông nhập ngũ mang số quân 40/301.796. Theo học khóa 4 tại trường Võ bị Lục quân Chapa, Lào Kay (Sapa, Lào Cai),[4] khai giảng ngày 1 tháng 1 năm 1946. Tháng 12 cùng năm mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy. Ra trường ông được đi tu nghiệp tại trường Võ bị Hoàng Phố, Trung Hoa.[5] Tháng 4 năm 1947 mãn khóa về nước, ông được thăng cấp Thiếu úy phục vụ trong Tiểu đoàn Bộ binh thuộc Quân đội Liên hiệp Pháp. Tháng 6 năm 1948, ông được thăng cấp Trung úy, biệt phái làm Tham mưu trưởng đơn vị Phụ lực quân của Lực lượng Giáo phái Phát Diệm.[6]

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Năm 1950, sau khi Quốc gia Việt Nam thành lập Quân đội, ông được trưng dụng phục vụ Quân đội Quốc gia và được thăng cấp Đại úy. Tháng 7 năm 1952, ông được cử đi du học lớp Tham mưu tại Trường Tham mưu Ba Lê (École d'État Major de Paris, France) đến đầu năm 1953 mãn khóa về nước. Tháng 8 năm 1954, sau Hiệp định Genève (20 tháng 7), ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 18 Việt Nam.[7]

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Tháng 11 năm 1955, sau khi Quân đội Quốc gia được cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, chuyển sang phục cơ cấu quân đội mới ông được thăng cấp Trung tá giữ chức vụ Tham mưu trưởng Đệ nhất Quân khu Nam Việt do Đại tá Trần Văn Minh làm Tư lệnh. Ngày 8 tháng 12 năm 1956, ông được thăng cấp Đại tá được bổ nhiệm giữ chức vụ Tổng Giám đốc Tổng nha Cảnh sát-Công an thay thế Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ được cử đi giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện số 1.[8] Ngày 27 tháng 2 năm 1957, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm.

Ngày 7 tháng 3 năm 1958, nhận lệnh bàn giao chức vụ Tổng giám đốc Cảnh sát-Công an lại cho Thiếu tướng Nguyễn Văn Là. Ngày 15 tháng 8 cùng năm, ông được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân tại Bộ Tổng tham mưu. Đến giữa tháng 9 năm 1960, bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân lại cho Thiếu tướng Nguyễn Khánh. Ngay sau đó, ông được chỉ định giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Đại học Quân sự.[9] Tháng 8 năm 1961, tạm ngưng chức vụ đương nhiệm, ông được cử đi du học lớp Tham mưu cao cấp (khóa 1961 - 1962) thụ huấn 42 tuần tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ[10]. Giữa năm 1962 mãn khóa về nước tiếp tục chức vụ cũ.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông tham gia cuộc đảo chính chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngày 2 tháng 11, ông được thăng cấp Trung tướng giữ chức Uỷ viên An ninh của Hội đồng Quân nhân Cách mạng do Trung tướng Dương Văn Minh làm Chủ tịch.

Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1 để giành quyền lãnh đạo của tướng Nguyễn Khánh, ông được cử giữ chức Đệ Tam phó Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng do Trung tướng Khánh làm Chủ tịch. Ngày 17 tháng 2 năm 1965, ông được Hội đồng tướng lãnh bầu làm Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Lập pháp. Hội đồng này gồm có 20 thành viên. Đến tháng 10 cùng năm ông được cử đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Nam Hàn. Cuối năm ông được giải ngũ.

Từ sau 1975

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông cùng gia đình di tản khỏi Viêt Nam, sau đó sang định cư tại Tp Rockville, Tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ.

Ngày 7 tháng 8 năm 2018, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 98 tuổi.

Gia đình

  • Phu nhân: bà Nguyễn Lệ Hà
-Ông bà có tám người con gồm 3 trai, 5 gái.

Chú thích

  1. ^ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thủ đô Seoul, Đại Hàn Dân Quốc.
  2. ^ Sở dĩ tướng Chiểu được ưu ái là do có một thời gian ông làm Tham mưu trưởng cho Giáo phái Phát Diệm. Giáo phái này về sau là một Lực lượng Công giáo tích cực ủng hộ và hậu thuẫn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm trong suốt thời gian cầm quyền ở miền Nam Việt Nam (1954-1963).
  3. ^ Hệ Trung học phổ thông của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1971 trở về trước:
    -Trung học Đệ Nhất cấp (nay là Trung học Cơ sở) gồm các lớp:
    -Đệ Thất (lớp 6), Đệ Lục (lớp 7), Đệ Ngũ (lớp 8), Đệ Tứ (lớp 9). Học xong Đệ Tứ, thi lấy bằng Trung học (Thành Chung).
    -Trung học Đệ Nhị cấp (nay là Trung học Phổ thông):
    -Đệ Tam (lớp 10), Đệ Nhị (lớp 11). Học xong Đệ Nhị thi lấy bằng Tú tài 1 (Tú tài bán phần hoặc Part I), Đệ Nhất (lớp 12). Học xong Đệ Nhất thi lấy bằng Tú tài 2 (Tú tài toàn phần hoặc Part II). Sau đó lên thẳng Cao đẳng hoặc Đại học.
  4. ^ Do Việt Nam Quốc dân Đảng thành lập. Ban Giám đốc và ban giảng huấn đều là sĩ quan người Nhật đã bỏ ngũ trước và sau khi Đế quốc Nhật đầu hàng Đồng Minh. Mục đích của những quân nhân này là giúp đỡ cho Quốc dân dảng VN
  5. ^ Thực ra, khi Pháp đầu hàng Nhật, ông di chuyển sang Trung hoa phục vụ Quân đội Quốc dân Đảng do Thống chế Tưởng Giới Thạch làm Tổng Tư lệnh, và được tu nghiệp ở trường Sĩ quan Hoàng Phố
  6. ^ Chỉ huy Lực lượng Vũ trang Giáo phái Phát Diệm do Đức Giám mục Lê Hữu Từ làm Tổng Điều hành.
  7. ^ Tiểu đoàn 18 Việt Nam được thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1951 tại Phát Diệm.
  8. ^ Trung tâm Huấn luyện số 1 là hậu thân của Trung tâm Huấn luyện tại Quán Tre. Sau trở thành Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung.
  9. ^ Nguyên là Trung tâm Chiến thuật Hà Nội. Sau năm 1954 chuyển vào Sài Gòn lấy tên Đại học Quân sự. Về sau chuyển lên Đà Lạt đổi thành trường Chỉ huy và Tham mưu.
  10. ^ Cùng đi tu nghiệp lớp Chỉ huy Tham mưu 1961 - 1962 tại Hoa Kỳ với Thiếu tướng Phạm Xuân Chiểu còn có Thiếu tá Không quân Lê Minh Luân (Sinh năm 1926 tại Hà Nội, tốt nghiệp Trường Sĩ quan Nước Ngọt Vũng Tàu, sau cùng là Đại tá Phụ tá Tư lệnh Quân chủng Không quân).

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.