Bước tới nội dung

Đại học Tunku Abdul Rahman

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Universiti Tunku Abdul Rahman
Tunku Abdul Rahman University
拉曼大学
துங்கு அப்துல் ரகுமான் பல்கலைக்கழகம்
اونيۏرسيتي تونكو عبدالرحمن
Tập tin:Universiti Tunku Abdul Rahman Logo.jpg
Vị trí
Map
,
Thông tin
LoạiTư thục
Khẩu hiệuBroadening Horizons, Transforming Lives
德智体兼修 群美新并重
Thành lập2002
Hiệu trưởngIr. Professor Academician Dato' Dr. Chuah Hean Teik[2]
Giảng viên1.115
Số Sinh viên>26.000 (2016)[3]
Khuôn viênSungai Long
Kampar
Màu            
Xanh biển, Vàng, Đỏ
Websitewww.utar.edu.my
Thông tin khác
Thành viênACU,[5] AACSB,[6] ABEST21,[7] APUCEN
Tổ chức và quản lý
Hiệu trưởng danh dựLâm Lương Thực[1]
Thống kê
Sinh viên đại học20.080 (2016)[4]
Khu trường sở UTAR Sungai Long
Đại học Tunku Abdul Rahman
Giản thể拉曼大学
Phồn thể拉曼大學

Đại học Tunku Abdul Rahman (tiếng Mã Lai: Universiti Tunku Abdul Rahman, (viết tắt UTAR; chữ Hán giản thể: 拉曼大学; chữ Hán phồn thể: 拉曼大學; pinyin: Lāmàn Dàxué) là một trường đại học tư thục phi lợi nhuậnMalaysia, là một trong những đại học tư thục danh tiếng nhất Malaysiaa, xếp hạng 100 trong bảng xếp hạng các trường đại học 2018 của Times Higher Education Asia University Rankings[8], xếp thứ nhì ở Malaysia sau Đại học Malaya. Trường được thành lập tháng 6 năm 2002 dưới một cơ sở có tên gọi là Cơ sở Giáo dục UTAR, một tổ chức phi lợi nhuận.[9] Trường có 9 khoa, ba học viện, 3 trung tâm nghiên cứu.[10]

Trường náy có hai khu trường sở, khu trường sở Sungai Long, tọa lạc trong thung lũng Klang còn khu trường sở kia[11] Kampar nằm ở bang Perak, từng nổi tiếng về ngành khai thác mỏ thiếc.[12][13] Tháng 6 năm 2015, các khu trường sở Petaling JayaKuala Lumpur đã được chuyển sang khu Sungai Long.[14]

Đợt tuyển sinh đầu tiên vào tháng 6/2002, trường chỉ có 411 sinh viên. Số sinh viên của trường đã tăng lên nhanh chóng trong các năm sau. Theo công bố của trường, hiện trường có hơn 26.000 sinh viên.[15] Lục đầu trường chỉ có tám chương trình đào tạo[16] nhưng nay đã có hơn 110 chương trình, bao gồm cơ sở, dưới đại học và sau đại học với nhiều lĩnh vực khác nhau.[17]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “University Council”. UTAR. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  2. ^ “UTAR Management”. UTAR. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2012.
  3. ^ “History of UTAR”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2016.
  4. ^ “Universiti Tunku Abdul Rahman (UTAR) Top Universities”. Quacquarelli Symonds(QS). Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2017.
  5. ^ “Association of Commonwealth Universities(ACU) Members”. Association of Commonwealth Universities(ACU). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2013.
  6. ^ “AACSB Educational Member Full List”. AACSB International. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2016.
  7. ^ “ABEST21 Members”. ABEST21. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2016.
  8. ^ “Asia University Rankings 2018”. Times Higher Education (THE). Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2018.
  9. ^ “Institution Profile”. Ministry of Higher Education, Malaysia. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2012.
  10. ^ “UTAR Research Portal”. UTAR. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2016.
  11. ^ “UTAR Perak campus wins PAM gold award”. UTAR. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2018.
  12. ^ “Overview”. UTAR. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2012.
  13. ^ Jeffery Francis. "Kampar – From Tin Mines to Tertiary Education". Ipoh Echo. 16–ngày 31 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2012.
  14. ^ “Farewell UTAR PJ and KL Campuses”. UTAR. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2015.
  15. ^ “Welcome Message from the President”. The Star. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2016.
  16. ^ “History”. UTAR. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2012.
  17. ^ “Academic Section”. UTAR. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2012.