Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tương tác điện yếu”
Sửa câu cú Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động |
Sửa chính tả Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động |
||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
chúng là hai khía cạnh của một lực. Ở năng lượng cao hơn năng lượng thống nhất – là khoảng {{val|100|ul=GeV}} – |
chúng là hai khía cạnh của một lực. Ở năng lượng cao hơn năng lượng thống nhất – là khoảng {{val|100|ul=GeV}} – chúng hoà quyện thành một lực ''điện yếu''. Điều này có nghĩa là, nếu vũ trụ đủ nóng (khoảng chừng {{val|e=15|ul=K}}, mà ngay sau [[Vụ Nổ Lớn]] vũ trụ đã có nhiệt độ cao hơn) thì lực điện từ và lực hạt nhân yếu sẽ hoà quyện thành một lực điện yếu liên hợp. Trong [[kỷ nguyên điện yếu]] lực điện yếu tách ra khỏi [[tương tác mạnh|lực hạt nhân mạnh]], còn trong [[kỷ nguyên quark]] lực điện yếu chia rẽ thành lực điện từ và lực hạt nhân yếu. |
||
[[Abdus Salam]], [[Sheldon Lee Glashow|Sheldon Glashow]] và [[Steven Weinberg]] giành [[Giải Nobel Vật Lý]] năm 1979 với đóng góp về thống nhất tương tác yếu và điện từ giữa hạt cơ bản.<ref> |
[[Abdus Salam]], [[Sheldon Lee Glashow|Sheldon Glashow]] và [[Steven Weinberg]] giành [[Giải Nobel Vật Lý]] năm 1979 với đóng góp về thống nhất tương tác yếu và điện từ giữa hạt cơ bản.<ref> |
Phiên bản lúc 08:10, ngày 1 tháng 6 năm 2018
chúng là hai khía cạnh của một lực. Ở năng lượng cao hơn năng lượng thống nhất – là khoảng 100 GeV – chúng hoà quyện thành một lực điện yếu. Điều này có nghĩa là, nếu vũ trụ đủ nóng (khoảng chừng 1015 K, mà ngay sau Vụ Nổ Lớn vũ trụ đã có nhiệt độ cao hơn) thì lực điện từ và lực hạt nhân yếu sẽ hoà quyện thành một lực điện yếu liên hợp. Trong kỷ nguyên điện yếu lực điện yếu tách ra khỏi lực hạt nhân mạnh, còn trong kỷ nguyên quark lực điện yếu chia rẽ thành lực điện từ và lực hạt nhân yếu.
Abdus Salam, Sheldon Glashow và Steven Weinberg giành Giải Nobel Vật Lý năm 1979 với đóng góp về thống nhất tương tác yếu và điện từ giữa hạt cơ bản.[1][2] Sự tồn tại của tương tác điện yếu được thực nghiệm xác minh trong hai đợt. Đợt thứ nhất là sự khám phá của dòng trung hoà trong sự tác xạ neutrino bởi nhóm Gargamelle năm 1973. Đợt thứ hai là nhóm UA1 và UA2 khám phá boson chuẩn W và Z trong va chạm proton-phản proton tại Super Proton Synchrotron năm 1983. Năm 1999, Gerardus 't Hooft và Martinus Veltman đoạt Giải Nobel Vật Lý với công trình chứng minh tính tái chuẩn hoá của thuyết điện yếu.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ S. Bais (2005). The Equations: Icons of knowledge. tr. 84. ISBN 0-674-01967-9.
- ^ “The Nobel Prize in Physics 1979”. The Nobel Foundation. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2008.
Đọc thêm
- B. A. Schumm (2004). Deep Down Things: The Breathtaking Beauty of Particle Physics. Johns Hopkins University Press. ISBN 0-8018-7971-X.
- D. J. Griffiths (1987). Introduction to Elementary Particles. John Wiley & Sons. ISBN 0-471-60386-4.
- W. Greiner, B. Müller (2000). Gauge Theory of Weak Interactions. Springer. ISBN 3-540-67672-4.
- G. L. Kane (1987). Modern Elementary Particle Physics. Perseus Books. ISBN 0-201-11749-5.