Cừu Basque

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cừu Basco-Béarnaise

Cừu Basque-béarnaise hoặc còn gọi la Cừu Basque là một giống cừu của Pháp hiện diện ở vùng Haut-Béarn và xứ Basque (Haute-Soule). Đây là những con cừu cái của vùng Béarn, sản xuất sữa để sản xuất pho mát. Chúng xuất phát từ giống cừu Convexilignes (đầu mũ) của vùng Pyrenees, lông cừu khá thô (bấc được làm bằng sợi có độ dài không bằng nhau). Lịch sử cổ xưa của nó là một số phụ giống hay các loại cừu Valléen địa phương. Các giống Basque và Béarnaise gần về hệ gen và được sáp nhập với Basque-béarnaise để được chính thức công nhận là một giống trong 1930. Trong năm 2005, số lượng các giống đăng ký là cừu Basque-béarnaise là khoảng 115 000 cá thể, trong đó có 76 000 con cừu (21 000 con trên sổ đăng ký) và 1900 con cừu đực, trong đó 5% trong độ sinh sản thụ tinh.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Cừu Basco-Béarnaise

Nó có thể dễ dàng nhận ra bởi cái đầu rất khoằm của nó (lồi nhất trong số tất cả các giống cừu ở Pháp), sợi dài lông cừu, hình dạng này cho phép chúng sống vào mùa hè, ở trên cao, trong không khí đầy đủ. Các con cừu đực, đã phát triển một sừng xoắn ốc xoay quanh tai mang nghiêng. Chiều cao tới vai là 75 cm và trọng lượng 55 kg cho cừu cái 90 cm và 80 kg cho cừu đực. Việc sản xuất sữa trung bình 180 lít với 145 ngày trong đó sữa có hàm lượng chất béo 7,42% và hàm lượng protein là 5,39% 4.

Sức chịu đựng của nó (khả năng chịu được những áp lực của một thay đổi và môi trường đầy thử thách) và mạnh mẽ làm cho nó thích hợp cho những chuyến đi dài ở đồng bằng và triền núi. Mặc dù mục đích chính của nó là sản xuất sữa nhưng với phẩm chất nhân giống (sinh sản nhiều hơn nuôi cừu) không kém với các giống chuyên thịt như Cừu Berrichon du Cher chúng có một khả năng tốt để sản xuất của con chiên thịt. Sữa của các con cừu Basco-Béarnaise là nguyên liệu nguồn gốc của pho mát với AOC Ossau-Iraty, Tomme của cừu Pyrenees.

Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê.

Chăn nuôi[sửa | sửa mã nguồn]

Chăn nuôi cừu Basco-bearnaise

Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô.

Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô.

Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít.

Chăm sóc[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi cho phối giống 16-17 ngày mà không có biểu hiện động dục lại là có thể cừu đã có chửa, Căn cứ vào ngày phối giống để chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu (thời gian mang thai của cừu 146-150 ngày) nhằm hạn chế cừu sơ sinh bị chết; Có thể bồi dưỡng thêm thức ăn tinh và rau cỏ non cho cừu có chửa nhưng tuyệt đối tránh thức ăn hôi mốc; Khi có dấu hiệu sắp đẻ (bầu vú căng, xuống sữa, sụt mông, âm hộ sưng to, dịch nhờn chảy ra, cào bới sàn…) nên nhốt ở chuồng riêng có lót ổ rơm và chăn dắt gần, tránh đồi dốc.

Thông thường cừu mẹ nằm đẻ nhưng cũng có trường hợp đứng đẻ, tốt nhất nên chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu; Sau khi đẻ cừu mẹ tự liếm cho con. Tuy nhiên, vẫn phải lấy khăn sạch lau khô cho cừu con, nhất là ở miệng và mũi cho cừu con dễ thở. Lấy chỉ sạch buộc cuống rốn (cách rốn 4–5 cm), cắt cuống rốn cho cừu con và dùng cồn Iod để sát trùng; Giúp cừu con sơ sinh đứng dậy bú sữa đầu càng sớm càng tốt (vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể tự nhiên); Đẻ xong cho cừu mẹ uống nước thoải mái (có pha đường 1% hoặc muối 0.5%).

Cừu con trong 10 ngày đầu sau khi đẻ cừu con bú sữa mẹ tự do; Từ 11-21 ngày tuổi cừu con bú mẹ 3 lần/ngày, nên tập cho cừu con ăn thêm thức ăn tinh và cỏ non, ngon; 80-90 ngày tuổi có thể cai sữa. Giai đoạn này phải có cỏ tươi non, ngon cho cừu con để kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển (đặc biệt là dạ cỏ) và bù đắp lượng dinh dưỡng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp không đủ; Cừu sinh trưởng và phát triển nhanh, mạnh ở giai đoạn này.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Le groupement d'intérêt scientifique Ovins lait des Pyrénées Atlantiques
  • Fiche de la race basco-béarnaise sur le site agroparistech.fr, consulté le 10 février 2010.
  • La basco-béarnaise [archive] sur le livre Races ovines et caprines françaises de Daniel Babo, consulté le 10 février 2010 sur le site books.google.fr.
  • L'abri sous roche, ancêtre de la cabane d'Aquitaine [archive] sur le site cabanes.u-bordeaux3.fr, consulté le 11 février 2010.
  • Définition du flock-book [archive] sur le site dictionnaire.reverso.net, consulté le 10 février 2010.
  • a, b, c, d et e Fiche de la basco béarnaise [archive] sur le site brg.prd.fr, consulté le 10 février 2010.
  • Page de la basco-béarnaise [archive] sur le site agroparistech.fr, consulté le 10 février 2010.
  • Le fromage d'estive [archive] sur le site associationdeseleveurstranshumantsdes3valleesbearn.unblog.fr, consulté le 10 février 2010.
  • Budiansky, Stephen (1999). The Covenant of the Wild: Why animals chose domestication. Yale University Press. ISBN 0-300-07993-1.
  • Ensminger, Dr. M.E.; Dr. R.O. Parker (1986). Sheep and Goat Science, Fifth Edition. Danville, Illinois: The Interstate Printers and Publishers Inc. ISBN 0-8134-2464-X.
  • Pugh, David G. (2001). Sheep & Goat Medicine. Elsevier Health Sciences. ISBN 0-7216-9052-1.
  • Simmons, Paula; Carol Ekarius (2001). Storey's Guide to Raising Sheep. North Adams, MA: Storey Publishing LLC. ISBN 978-1-58017-262-2.
  • Smith M.S., Barbara; Mark Aseltine PhD; Gerald Kennedy DVM (1997). Beginning Shepherd's Manual, Second Edition. Ames, Iowa: Iowa State University Press. ISBN 0-8138-2799-X.
  • Weaver, Sue (2005). Sheep: small-scale sheep keeping for pleasure and profit. 3 Burroughs Irvine, CA 92618: Hobby Farm Press, an imprint of BowTie Press, a division of BowTie Inc. ISBN 1-931993-49-1.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  • Wooster, Chuck (2005). Living with Sheep: Everything You Need to Know to Raise Your Own Flock. Geoff Hansen (Photography). Guilford, Connecticut: The Lyons Press. ISBN 1-59228-531-7.