Camila Vallejo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Camila Vallejo
Camila Vallejo in 2023
Bộ trưởng Tổng Bí thư Chính phủ
Nhiệm kỳ
11 tháng 3 năm 2022 – nay
2 năm, 62 ngày
Tổng thốngGabriel Boric
Tiền nhiệmJaime Bellolio
Kế nhiệmđương nhiệm
Thành viên của Hạ viện Chile
Nhiệm kỳ
11 tháng 3 năm 2018 – 11 tháng 3 năm 2022
Tiền nhiệmThành lập
Khu vực bầu cửQuận 12, vùng đô thị Santiago
Nhiệm kỳ
11 tháng 3 năm 2014 – 11 tháng 3 năm 2018
Tiền nhiệmCarlos Montes Cisternas
Kế nhiệmGiải thể
Khu vực bầu cửQuận 26, vùng đô thị Santiago
Chủ tịch Liên đoàn Học sinh Chile
Nhiệm kỳ
24 tháng 11 năm 2010 – 16 tháng 11 năm 2011
Tiền nhiệmJulio Sarmiento
Kế nhiệmGabriel Boric
Thông tin cá nhân
Sinh28 tháng 4, 1988 (36 tuổi)
Santiago, Chile
Quốc tịch Chile
Đảng chính trịĐảng Cộng sản
Bạn đờiJulio Sarmiento (2011–2016)
Abel Zicavo (2016–nay)
Con cái1
Cư trúLa Florida, Chile
Alma materĐại học Chile
Chuyên nghiệpNhà địa lý

Camila Antonia Amaranta Antioch Harding (tiếng Tây Ban Nha: [kaˈmila anˈtonja amaˈɾanta βaˈʝexo ˈdaʊlɪŋ]; sinh ngày 28 tháng 4 năm 1988), thường được biết đến với tên gọi Camila Vallejo, là một nữ nhà chính trị kiêm cựu lãnh đạo sinh viên người Chile. Là thành viên của Đảng Cộng sản Chile, cô giữ chức vụ Bộ trưởng Tổng Bí thư Chính phủ kể từ ngày 11 tháng 3 năm 2022. Trước đó, Vallejo từng là thành viên của Hạ viện Chile, đại diện cho Quận 26 của La Florida, Santiago.

Trong nhiệm kỳ làm chủ tịch Liên đoàn Sinh viên Đại học Chile (FECh) và là người phát ngôn chính của Liên đoàn Sinh viên Chile (Confech), Vallejo đã trở thành một trong những lãnh tụ nổi bật nhất trong các cuộc biểu tình của sinh viên năm 2011.[1] Được tạp chí The New York Times mô tả là "nhà cách mạng quyến rũ nhất thế giới",[1] Vallejo được xem là nhân vật cộng sản có ảnh hưởng nhất ở Chile thế kỷ 21. Cô cũng được xem là người kế nhiệm mang tính biểu tượng của cựu Tổng bí thư Gladys Marín.[2][3]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thiếu thời[sửa | sửa mã nguồn]

Vallejo là con gái của Reinaldo Vallejo và Mariela Dowling, cả hai đều là thành viên của Đảng Cộng sản Chile và hoạt động trong cuộc chống đối chế độ độc tài Augusto Pinochet.[4] Cô trải qua những năm tháng đầu đời ở MaculLa Florida, đi học ở một ngôi trường tư có tên là Colegio Raimapu ở La Florida. Năm 2006 Vallejo vào học ngành địa lý ở Đại học Chile. Tại đây cố bắt đầu quen biết với các sinh viên theo cánh tả và dấn thân vào con đường chính trị, và gia nhập tổ chức Thanh niên Cộng sản Chile vào năm 2007.[5] Vallejo tốt nghiệp ngành địa lý vào năm 2013.[6]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Camila Vallejo vào tháng 8 năm 2013.

Tháng 4 năm 2013, báo chí đưa tin Vallejo đang mang thai đứa con đầu lòng với Julio Sarmiento, một trong những người đứng đầu của tổ chức Thanh niên Cộng sản Chile và là người yêu của cô từ tháng 9 năm 2011.[7][8] Ngày 6 tháng 10 năm 2013, con gái của cô chào đời.[9]

Năm 2016, cả Vallejo và Sarmiento chia tay nhau, sau đó cô hẹn hò với nhạc sĩ Abel Zicavo.[10][11]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Goldman, Francisco (ngày 5 tháng 4 năm 2012). “Camilla Vallejo, the World's Most Glamorous Revolutionary”. The New York Times. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2013.
  2. ^ “El Partido Comunista y su recambio generacional: Karol Cariola, Camila Vallejo y Camilo Ballesteros encabezan el "comunismo joven" [The Communist Party and its generational replacement: Karol Cariola, Camila Vallejo and Camilo Ballesteros lead "young communism"]. CNN Chile (bằng tiếng Tây Ban Nha). 3 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2012.
  3. ^ “Francisco Vidal sobre Camila Vallejo: "Es la Gladys Marín del Siglo XXI" [Francisco Vidal on Camila Vallejo: "She is the Gladys Marín of the 21st Century"]. El Dínamo (bằng tiếng Tây Ban Nha). 23 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2011.
  4. ^ Olivares, Marisol (ngày 12 tháng 2 năm 2012). “Reinaldo Vallejo saca la voz”. Diario La Tercera. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2013.
  5. ^ Aldea, Sofía (ngày 16 tháng 5 năm 2011). “Compañera Camila”. Revista Paula. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2011.
  6. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
  7. ^ “Camila Vallejo está embarazada”. Cooperativa.cl. ngày 12 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2013.
  8. ^ “Julio Sarmiento es el padre del hijo que espera Camilo Vallejo”. Nación.cl. ngày 11 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2013.
  9. ^ “Nació bebé de Camila Vallejo: Fue niña y pesó 3 kilos 355 gramos” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Emol.com. ngày 6 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2013.
  10. ^ “FOTO! El nuevo pololo de Camila Vallejo”. Glamorama. 10 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2022.
  11. ^ “Camila Vallejo tras su separación: "Estoy saliendo con un chiquillo". ADN (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2022.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]