Chết đuối

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chết đuối hay đuối nước, ngạt nước được định nghĩa là quá trình bị ngạt khi ở trong chất lỏng[1]. Nó được phân loại theo kết quả sau: tử vong, các vấn đề sức khỏe đang diễn ra, và không có vấn đề về sức khỏe nào diễn ra.[1] Chết đuối thường là nhanh chóng và im lặng, mặc dù trước đó nó sẽ tạo ra sự căng thẳng mà dễ thấy hơn trên người bị chìm.[2]

Nói chung, trong giai đoạn đầu của quá trình chết đuối, rất ít nước đi vào phổi: một lượng nhỏ nước xâm nhập vào khí quản gây ra một cơn co thắt cơ bắp để chặn đường hô hấp và ngăn không cho cả không khí lẫn nước đi vào khí quản cho đến khi người đó bất tỉnh. Điều này có nghĩa là một người chết đuối không thể kêu la hoặc kêu gọi sự giúp đỡ, hoặc tìm kiếm sự chú ý, vì họ không thể có đủ không khí. Phản ứng chết đuối bản năng là tập hợp cuối cùng của phản xạ tự chủ trong 20–60 giây trước khi chìm dưới nước, và với mắt người chưa được đào tạo có thể trông giống như hành vi khá an toàn bình tĩnh.[2][3] Nhân viên cứu hộ và những người khác được huấn luyện trong giải cứu học cách nhận ra người chết đuối bằng cách quan sát những chuyển động này.[2] Nếu quá trình này không bị gián đoạn, việc mất ý thức do thiếu oxy được tiếp theo nhanh chóng bằng việc ngừng tim. Ở giai đoạn này, quá trình này vẫn có thể đảo ngược bằng cách cứu hộ nhanh chóng và hiệu quả kèm sơ cứu. Tỷ lệ sống phụ thuộc mạnh vào thời gian bị ngập.

Trong năm 2013, có khoảng 1,7 triệu trường hợp chết đuối.[4] Đuối nước không chủ ý là nguyên nhân thứ ba gây thương tích không chủ ý dẫn đến tử vong trên toàn thế giới. Năm 2013, ước tính có 368.000 ca tử vong, giảm từ 545.000 ca tử vong vào năm 1990[5]. Trong số những trường hợp tử vong này, 82.000 người đã xảy ra ở trẻ em dưới 5 tuổi.[5] Nó chiếm 7% của tất cả các trường hợp tử vong liên quan đến thương tích (không bao gồm những người chết vì thiên tai), với 91% số ca tử vong này xảy ra ở các nước thu nhập thấp và trung bình.[6] Đuối nước xảy ra thường xuyên hơn ở nam giới và người trẻ[7]. Tỷ lệ chết đuối ở các cộng đồng trên toàn thế giới rất khác nhau tùy theo khả năng tiếp cận với nước, khí hậu và văn hóa bơi lội tại các quốc gia.

Cứu hộ ở 'người chết đuối'[sửa | sửa mã nguồn]

Giải cứu với đối tượng. Thật thuận tiện cho những người cứu hộ nằm xuống, để tránh bị nạn nhân kéo về phía nước.

Theo các giao thức, để ngăn chặn sự chết đuối của người dân:[8]


  • Giải cứu qua nước: Người cứu hộ đã kiểm soát vị trí của một nạn nhân với sự lo lắng (phần nguy hiểm nhất), và thao tác kéo bắt đầu. Miệng và mũi của nạn nhân đều cao hơn nước.
    Cảnh báo các lính canh của nước.
  • Ném các vật nổi (vòng tròn cuộc sống, đồ chơi nổi, cành dày, v.v.).
  • Cung cấp các đối tượng có thể được nắm (cực, nhánh dày, dây thừng, v.v.).
  • Sử dụng một con tàu nổi để đến với nạn nhân, và đặt anh ta vào trong.
  • Gọi các dịch vụ y tế khẩn cấp (115).
  • Yêu cầu ai đó có được nạn nhân, bằng cách bơi lội, nhưng chỉ khi anh ta có thể làm tốt điều đó (về mặt kỹ thuật và thể chất).
  • Thực hiện sơ cứu (đọc bên dưới).




Các thao tác sơ cứu khi bị đuối nước (chết đuối)[sửa | sửa mã nguồn]

Khi một người cứu hộ và một nạn nhân đang ở trên mặt đất:[9]

Kiểm tra phản ứng và hơi thở của người đó. Nếu họ bất tỉnh và còn thở, cho họ nằm nghiêng 1 bên (tư thế phục hồi).

Nếu nạn nhân là bất tỉnh, không còn thở, làm hồi sinh tim phổi (CPR) lập tức. Nạn nhân nằm ngửa và người cứu hộ đứng bên cạnh. Sau đó:

Thông gió (cứu dưỡng thở bằng miệng) của hồi sức tim phổi
  • Nén ngực của hồi sức tim phổi
    Nếu nạn nhân lớn hơn em bé (vì vậy một người lớn hoặc trẻ em): Nếu nạn nhân lớn hơn em bé (vì vậy người lớn hoặc trẻ em): Nó bắt đầu bằng 5 thông gió ban đầu: đóng mũi của nạn nhân, niêm phong miệng nạn nhân bằng miệng của người đàn ông cứu hộ, và đẩy không khí vào trong. Tiếp theo, một loạt 2 thông gió (theo cách tương tự) đang xen kẽ liên tục với một loạt 30 nén ngực: bằng cách nén ở nửa dưới của xương ức của anh ta, xương ngang qua trung tâm của ngực từ cổ đến bụng. Sau 2 phút hoặc 5 chu kỳ thực hiện cả hai chuỗi hồi sức, gọi các dịch vụ khẩn cấp (số điện thoại 115, có một danh sách các số điện thoại khẩn cấp ở đây) và tiếp tục với các chuỗi hồi sức đó. Cả hai loạt thông gió và nén tiếp tục cho đến khi nạn nhân thở lại hoặc các dịch vụ y tế đến.
  • Nếu nạn nhân là em bé (thường dưới 1 tuổi): Nó rất giống nhau. Nó bắt đầu bằng 5 thông gió ban đầu: với miệng của người cứu hộ bao phủ mũi và miệng của em bé cùng một lúc, và đặt không khí vào bên trong (không phải với quá nhiều lực). Tiếp theo, một loạt 2 thông gió (theo cách tương tự) đang xen kẽ liên tục với một loạt 30 nén ngực: bằng cách nhấn chỉ với 2 ngón tay trên nửa dưới của xương ức của anh, xương ngang qua trung tâm của ngực từ cổ đến bụng. Sau 2 phút hoặc 5 chu kỳ thực hiện cả hai chuỗi hồi sức, gọi các dịch vụ khẩn cấp (số điện thoại 115, có một danh sách các số điện thoại khẩn cấp ở đây) và tiếp tục với các chuỗi hồi sức đó. Cả hai loạt thông gió và nén tiếp tục cho đến khi nạn nhân thở lại hoặc các dịch vụ y tế đến.

Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

So với năm 2010, số trẻ em tử vong do đuối nước hàng năm đã giảm nhưng vẫn còn hơn 2.000 trẻ qua đời mỗi năm vì chết đuối. Thống kê năm 2015-2016 cho thấy tỉ lệ trẻ em Việt Nam biết bơi chỉ khoảng 30%, con số hiện nay có tăng nhưng chưa đáng kể. (12.11.2019) [10]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b E.F. van Beeck; C.M. Branche; D. Szpilman; J.H. Modell; J.J.L.M. Bierens (2005), A new definition of drowning: towards documentation and prevention of a global public health problem, 83, Bulletin of the World Health Organization (xuất bản ngày 11 tháng 11 năm 2005), tr. 801–880, lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2012, truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2012
  2. ^ a b c Vittone, Mario; Pia, Francesco (Fall 2006). 'It Doesn't Look Like They're Drowning': How To Recognize the Instinctive Drowning Response” (PDF). On Scene: The Journal of U.S. Coast Guard Search and Rescue: 14. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2010.
  3. ^ O'Connell, Claire (ngày 3 tháng 8 năm 2010). “What stops people shouting and waving when drowning?”. Irish Times. Bản gốc lưu trữ 22 tháng Mười năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  4. ^ Global Burden of Disease Study 2013, Collaborators (ngày 22 tháng 8 năm 2015). “Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 301 acute and chronic diseases and injuries in 188 countries, 1990-2013: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2013”. Lancet. 386 (9995): 743–800. doi:10.1016/s0140-6736(15)60692-4. PMC 4561509. PMID 26063472.
  5. ^ a b GBD 2013 Mortality and Causes of Death, Collaborators (ngày 17 tháng 12 năm 2014). “Global, regional, and national age-sex specific all-cause and cause-specific mortality for 240 causes of death, 1990-2013: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2013”. Lancet. 385: 117–71. doi:10.1016/S0140-6736(14)61682-2. PMC 4340604. PMID 25530442.
  6. ^ “Drowning”. Fact sheet N°347. World Health Organization. tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2016.
  7. ^ “Drowning”. Centers for Disease Control and Prevention. ngày 23 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2016.
  8. ^ 學校體育組 , 林春妃小姐 ; 體育署. “Anti-drowning”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2023.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  9. ^ Coffey, Tony (2023). Sổ tay hướng dẫn Sơ cấp cứu và thoát hiểm. Việt Nam: Kỹ năng sinh tồn SSVN. tr. 19.
  10. ^ “Đuối nước làm Việt Nam mất hơn 2.000 trẻ em/mỗi năm”. Tuổi Trẻ. Truy cập 12 tháng 11 năm 2019.