Ipik Gandamana

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ipik Gandamana
Gandamana lúc là Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Nhiệm kỳ
10 tháng 7 năm 1959 – 27 tháng 8 năm 1964
Tổng thốngSukarno
Tiền nhiệmSanusi Hardjadinata
Kế nhiệmSoemarno Sosroatmodjo
Bộ trưởng Bộ Phát triển Nông thôn
Nhiệm kỳ
27 tháng 8 năm 1964 – 21 tháng 2 năm 1966
Tổng thốngSukarno
Tiền nhiệmChức vị thiết lập
Kế nhiệmAminuddin Azis (id) (với tư cách Thứ trưởng)
Thống đốc Tây Java
Nhiệm kỳ
1 tháng 7 năm 1957 – 1959
Tiền nhiệmSanusi Hardjadinata
Kế nhiệmMashudi
Thông tin cá nhân
Sinh(1906-11-30)30 tháng 11 năm 1906
Purwakarta, Đông Ấn Hà Lan
Mất6 tháng 8 năm 1979(1979-08-06) (72 tuổi)
Bandung, Indonesia

Ipik Gandamana (30 tháng 11 năm 1906 – 6 tháng 8 năm 1979) là một chính trị gia và công chức người Indonesia, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ dưới thời Sukarno từ năm 1959 đến năm 1964, và là Thống đốc Tây Java từ năm 1957 đến năm 1959. Ông bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một công chức thuộc địa vào năm 1926, đồng thời giữ chức nhiếp chính và Bộ trưởng thường trú tại BogorPriangan trước khi trở thành thống đốc.

Đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Gandamana sinh ra ở Purwakarta vào ngày 30 tháng 11 năm 1906. Ông được học tại trường tiểu học thuộc địa (ELS), và học một năm tại trường sơ đẳng nâng cấp (MULO) trước khi chuyển đến trường dự bị công chức. Ông hoạt động trong tổ chức Jong Java. Đến năm 1926, ông được nhận vào làm công chức thuộc địa, bắt đầu sự nghiệp với tư cách là phụ tá ở Bogor. Trước cuộc xâm lược của Nhật Bản, ông được tái bổ nhiệm vài lần đến các cơ quan khác khắp Tây JavaJakarta. Trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đông Ấn Hà Lan, ông được bổ nhiệm trở thành camat (khu trưởng) của Cibeureum, Tasikmalaya.[1]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Sau tuyên ngôn độc lập Indonesia, Gandamana được bổ nhiệm làm phó nhiếp chính (wedana) của Ujungberung, Bandung (id), sau đó là nhiếp chính của Bogor. Ông bị lực lượng Hà Lan bắt giữ sau Chiến dịch Kết quả, và bị lưu đày đến các vùng nông thôn của huyện Bogor, nơi ông tái thiết lập chính phủ cộng hòa thời kỳ nhiếp chính. Sau khi cuộc cách mạng kết thúc và chuyển giao chủ quyền, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Thường trú Bogor, sau đó được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Thường trú Priangan vào năm 1951.[1] Thời điểm này, ông là thành viên của phái đoàn nghiên cứu Indonesia đến Hoa Kỳ, ở đây trong ba tháng sau khi khởi hành vào tháng 9 năm 1953. Sau khi trở về Indonesia, Gandamana xuất bản Melawat ke Negara Dollar ("Đến thăm quốc gia đô la"), thuật lại chuyến thăm của ông. Báo cáo đã so sánh các vấn đề dân chủ ở Indonesia với các vấn đề ở Hoa Kỳ, cũng như cơ cấu chính phủ Hoa Kỳ.[2]

Ngày 1 tháng 7 năm 1957, ông được bổ nhiệm giữ chức Thống đốc Tây Java.[1] Ông khích lệ ủng hộ các viên chức địa phương được bầu hơn viên chức chính quyền trung ương. Gandamana quan niệm vai trò của các công chức là đào tạo những viên chức địa phương ít kinh nghiệm.[3] Trong nhiệm kỳ thống đốc, ông đứng đầu một ủy ban thành lập Đại học Padjadjaran.[4]

Gandamana được bổ nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Kabinet Kerja I (en) của Tổng thống Sukarno vào ngày 10 tháng 7 năm 1959. Vì nội các hình thành một chính phủ không đảng phái, Gandamana cùng một vài bộ trưởng được bổ nhiệm khác rời khỏi đảng chính trị, IPKI (en).[1][5] Ông giữ chức vụ này đến ngày 27 tháng 8 năm 1964, rồi được tái bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Phát triển Nông thôn.[6] Sau nhiệm kỳ Bộ trưởng Bộ Nội vụ của Gandamana, không có thường dân nào khác đảm nhận vị trí cho đến khi Gamawan Fauzi (en) được bổ nhiệm chức vụ này vào năm 2009.[7]

Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Sau phong trào 30 tháng 9, Sukarno chỉ đạo cải tổ nội các và cách chức bộ trưởng đối với Gandamana vào ngày 21 tháng 2 năm 1966.[8] Dưới sự lãnh đạo của Suharto, ông gia nhập Hội đồng Cố vấn Tối cao từ năm 1968 đến năm 1973.[9]

Ông qua đời ở Bandung vào ngày 6 tháng 8 năm 1979 và an táng tại Nghĩa trang Anh hùng Cikutra trong thành phố.[10] Ông có vợ và bốn người con.[1] Một khu phố ở Purwakarta được đặt theo tên ông.[11]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Mimbar penerangan (bằng tiếng Indonesia). Ministry of Information. 1959. tr. 353–354. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  2. ^ “Tanggung jawab Publik Residen Ipik”. Historia (bằng tiếng Indonesia). 13 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2023.
  3. ^ Walker, Millidge Penderell (1967). Administration and Local Government in Indonesia (bằng tiếng Anh). University of California, Berkeley. tr. 336. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  4. ^ Lubis, Nina Herlina (2005). Biografi R.S. Soeradiradja, 1900-1990 (bằng tiếng Indonesia). Pusat Penelitian Kemasyarakatan dan Kebudayaan, Lembaga Penelitian, Universitas Padjadjaran. tr. 71. ISBN 978-979-97745-2-1. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  5. ^ Lev, Daniel S. (2009). The Transition to Guided Democracy: Indonesian Politics, 1957-1959 (bằng tiếng Anh). Equinox Publishing. tr. 298–300. ISBN 978-602-8397-40-7. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  6. ^ “INDONESIAN CABINET REVISED BY SUKARNO”. The New York Times. 28 tháng 8 năm 1964. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2023.
  7. ^ “Gamawan Tandai Kembalinya Mendagri ke Sipil”. VIVA.co.id (bằng tiếng Indonesia). 22 tháng 10 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2023.
  8. ^ Crouch, Harold A. (2007). The Army and Politics in Indonesia (bằng tiếng Anh). Equinox Publishing. tr. 174. ISBN 978-979-3780-50-4. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  9. ^ Ghazali, Zulfikar (1986); "DPA dalam Sejarah Konstitusi Republik" (in Indonesian). Lưu trữ 30 tháng 7 2020 tại Wayback Machine; Jurnal Hukum & Pembangunan 16 (5)
  10. ^ Achmar, Uyung (18 tháng 1 năm 2018). “Pusara di Cikutra” (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2023.
  11. ^ Winanto, Ade (5 tháng 11 năm 2021). “Pahlawan Kelahiran Purwakarta Ini Pernah Jadi Menteri Dalam Negeri Era Presiden Soekarno, Siapa Dia?”. Pojoksatu.id (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2023.