Nhà tù Wronki

Lối vào chính với tháp đồng hồ
Một trong những tòa nhà của nhà tù Wronki

Nhà tù Wronki (tiếng Ba Lan: Zakład Karny Wronki) là nhà tù lớn nhất ở Ba Lan, giam giữ hơn 1400 tù nhân.[1][2][3] Được thành lập bởi Đế quốc Đức vào năm 1889, nó nằm ở thị trấn Wronki, tỉnh Greater Poland, Ba Lan.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà tù Wronki, ba tòa nhà bốn tầng xếp theo hình chéo, được thiết kế để giam giữ 750-800 tù nhân, kèm theo các tòa nhà chứa các lính canh và các nhân viên phụ trợ khác. Nó được xây dựng vào năm 1889 bởi chính phủ Phổ của Đức và được đưa vào sử dụng vào năm 1894 với tên gọi Zentralgefängnis für die Provinz Posen.[4][5][6] Nó được mô phỏng theo các nhà tù Mỹ đương đại (Hệ thống Philadelphia - quản lý dựa trên nguyên tắc của việc giữ tù nhân trong phòng biệt giam).[4][6] Các tù nhân được sử dụng làm nguồn nhân lực sản xuất vớ và trong các nhiệm vụ khác.[4][6]

Vào ngày 30 tháng 12 năm 1918, nhà tù đã bị chiếm giữ bởi quân nổi dậy Ba Lan trong cuộc nổi dậy Greater Poland (1918).[5] Các tù nhân được thả tự do trong khi nhà tù trở thành một doanh trại tạm thời cho quân nổi dậy. Nhà tù đã hoạt động trở lại vào cuối tháng 7 năm 1919 như là một phần của hệ thống nhà tù mới của Cộng hòa Ba Lan thứ hai (Ba Lan giữa hai cuộc chiến, tồn tại giữa thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai).[5] Ở Ba Lan, nhà tù được sử dụng làm nơi giam giữ các tù nhân chính trị.[4]

Trong Cuộc tấn công Ba Lan năm 1939, các tù nhân được thả tự do.[4] Sau đó nơi này được Đức Quốc xã tiếp quản, lần đầu tiên được sử dụng làm nơi giam giữ tạm thời cho các tù nhân chiến tranh và được đưa vào hệ thống nhà tù của Đức Quốc xã ở Reichsgau Wartheland.[5] Hầu hết các tù nhân tại thời điểm đó là tù nhân chính trị Ba Lan. Nhà tù đã bị quá tải (trong thời gian đó, số lượng tù nhân cao nhất đã được báo cáo: 4.358 người),[5][6] và các tù nhân bị ngược đãi.[5] Ít nhất 804 người (trong số khoảng 20.000 người đã từng bị giam giữ vào thời điểm đó) đã chết trong Nhà tù Wronki trong thời gian Đức chiếm đóng Ba Lan (1939-1945).[5][6]

Vào năm 1945 khi nhà tù bị lực lượng Liên Xô và Ba Lan tiếp quản, nó đã được sử dụng trong thời gian ngắn để giam giữ các tù nhân chiến tranh Đức và các tù nhân Đức khác.[5] Sau chiến tranh, từ năm 1945 - 1955, nhà tù thuộc quản lý của Bộ Công an Ba Lan và một lần nữa được sử dụng cho các tù nhân chính trị.[4] Một nhóm tù nhân đáng chú ý từ sớm đã được hình thành từ các cựu quân nhân của Quân đội chủ nhà Ba Lan.[5] Nhà tù vẫn còn quá đông, thường giam giữ khoảng 3.000 tù nhân,[5] và các tù nhân lại bị ngược đãi.[5][7] Khoảng 250 tù nhân đã chết trong thời gian đó, trong số hơn 15.000 tù nhân.[5][6]

Năm 1958, các công việc kim khí được phân công cho các tù nhân của nhà tù.[4]

Hiện tại, nhà tù sử dụng 400 nhân viên.[4] Năng lực chính thức của nó là 1474 tù nhân; tình trạng quá tải (cuối tháng 6 năm 2009 là 1658 tù nhân; năm 2004 là 1783 tù nhân) đang gây lo ngại.[2][8][9][10]

Cơ cấu và tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà tù có một bệnh xá, khu vực dành cho bệnh nhân tâm thần, nhà nguyện, thư viện, trung tâm thể thao và cơ sở giáo dục cấp hai (sức chứa 90 tù nhân).[4]

Hiện tại nhà tù được thiết kế để giam giữ các tù nhân nam phục vụ nhiều lần từ 3 tháng đến 25 năm.[6]

Các tù nhân được thuê bởi nhà tù, họ làm các công việc kim khí và các nơi làm việc khác, cũng như cho thị trấn Wronki ở hạt Szamotuły, tỉnh Greater Poland, ở phía tây Ba Lan..[4]

Những tù nhân đáng chú ý[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ (tiếng Ba Lan) Agata Pilarska-Jakubczak, Biją bo lubią Lưu trữ 2009-10-15 tại Wayback Machine, Forum Penitencjarne, 2009-8, Centralny Zarząd Służby Więziennej
  2. ^ a b (tiếng Ba Lan) Anna Frankowska, 63 zł kosztuje jeden dzień w więzieniu, 2008-08-05, Money.pl
  3. ^ (tiếng Ba Lan) Jacek Deptuła, Ciasno i duszno, Wysoki Sądzie, Gazeta Pomorska, 27 września 2008
  4. ^ a b c d e f g h i j (tiếng Ba Lan) Ogólnopolski Portal Służby Więziennej - ZK Wronki Lưu trữ 2009-12-01 tại Wayback Machine
  5. ^ a b c d e f g h i j k l (tiếng Ba Lan) Henryk Czarnecki, Centralne Więzienie Wronki - Rys historyczny Lưu trữ 2018-02-17 tại Wayback Machine
  6. ^ a b c d e f g h i Więzienie Lưu trữ 2008-04-29 tại Wayback Machine, official pages of Wronki town and gmina
  7. ^ Marek Jan Chodakiewicz: The Dialectics of Pain: The Interrogation Methods of the Communist Secret Police in Poland, 1944-1955. Glaukopis, vol. 2/3 (2004-2005), Reproduced online.
  8. ^ (tiếng Ba Lan) Piotr Żytnicki, Do sądu, bo cela była za ciasna, Gazeta Wyborcza, 2009-08-13
  9. ^ (tiếng Ba Lan) Piotr Żytnicki, Więźniowie chcą odszkodowań. Mają za ciasno, Gazeta Wyborcza Poznań, 2009-08-13
  10. ^ (tiếng Ba Lan) Wronki głodują spokojnie, BAS, PM, 2004-05-27
  11. ^ (tiếng Ba Lan) Irena "Nenia" Bobowska - patronka "Więzi"[liên kết hỏng]
  12. ^ (tiếng Ba Lan) Janusz Marciszewski, Uwolnić Banderę Lưu trữ 2009-07-03 tại Wayback Machine, NaszeMiasto.pl
  13. ^ a b (tiếng Ba Lan) Listy w sprawie biskupa Spletta, Tygodnik Powszechny, Nr 46 (2746), 18 listopada 2001
  14. ^ a b c d (tiếng Ba Lan) IPN umorzył śledztwo ws. zbrodni w stalinowskim więzieniu, Money.pl, 2008-12-08
  15. ^ (tiếng Ba Lan) Były prezes związku żołnierzy AK, gen. Karolkiewicz, walczy o dobre imię, Money.pl, 2007-01-18
  16. ^ (tiếng Ba Lan) Elżbieta Tarkowska, Ścieżki Jacka Kuronia, Tygodnik Powszechny, Nr 46 (2784), 17 listopada 2002

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trích hồi ký của một tù nhân của nhà tù Wronki ngay trước năm 1950: Stéphane Courtois, Mark Kramer, Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản: tội ác, khủng bố, đàn áp, Nhà xuất bản Đại học Harvard, 1999, ISBN 0-674-07608-7
  • J. Stępień, Wspomnienia z wiezienia w Wronkach (Hồi ức của một cựu tù nhân từ nhà tù Wronki), Rocznik Nadnotecki 21, 1990, tr.   63-80
  • Zygmunt Pociecha, Hệ thống Wronki (dấu chấm. Centralnego Wiezienia Karnego w latach 50-tych) (Hệ thống Wronki, liên quan đến Nhà tù Trung tâm ở Wronki trong những năm 50), trong ZH (Zeszyty Historyczne) 98/1991, tr.   107-137
  • Eligiusz Grupiński, Oferator zakladu karnego chúng tôi Wronkach w latach 1946.191919   89-102
  • Władysław Minkiewicz, Mokotów - Wronki - Rawicz: wspomnienia 1939-1954 (Mokotów - Wronki - Rawicz: hồi ký 1939-1954), Niezależna Oficyna Wydawnicza & Oficyna Wydawnicza "Pokolenie", năm 1988, nhập Google Print[liên kết hỏng]
  • Tadeusz Wolsza, W cieniu Wronek, Jaworzyna i Piechcina - 1945-1956: życie codzienne w polskich więzieniach, obozach i ośrodkach pracy winiów (Trong bóng tối của cuộc đời trung tâm cho tù nhân), Instytut Historyii PAN, 2003, ISBN 83-88909-06-1
  • Anna Walendowska-Garczarchot, Eksterminacja Polaków w zakładach karnych Rawicza i Wronek w okresie okupacji hitlerowskiej 1939-1945 (Sự hủy diệt của người Ba Lan ở Rawicz và Wronki ở Đức Nauk. Uniwersytetu im. Adama Mickiewicza w Poznaniu, 1981