Bước tới nội dung

Nóng chảy từng phần

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Nóng chảy từng phần xảy ra khi chỉ một phần của một chất rắn tan. Đối với các chất hỗn hợp, chẳng hạn như một tảng đá có chứa các khoáng chất khác nhau hoặc một loại khoáng chất có cấu tạo từ dung dịch rắn, sự tan chảy này có thể thay đổi thành phần chủ yếu ban đầu của chất rắn.

Nóng chảy từng phần xảy ra khi nhiệt độ đường pha lỏngđường pha rắn của các chất khác nhau. Đối một khoáng chất riêng lẻ hiện tượng này có thể xảy ra khi khoáng chất này có cấu tạo là dung dịch rắn, ví dụ như trong olivin là sự kết hợp giữa sắt và magnesi. Với đá tạo thành từ các khoáng chất khác nhau, một số sẽ tan chảy ở nhiệt độ thấp hơn so với những khoáng chất khác.

Nóng chảy từng phần là vấn đề quan trọng đối với địa chất nghiên cứ về sự phân hóa của đá của vỏ Trái Đất. Hầu như tất cả các loại đá trên Trái Đất bắt nguồn từ nguyên liệu từ bên trong của Trái Đất đã bị tan chảy một phần.[1]  Những nơi chính xảy ra nóng chảy từng phần là các vùng hút chìm, sống núi giữa đại dương và các điểm nóng. Nóng chảy một phần thường được gắn liền với núi lửa, mặc dù một số chất nóng chảy không kịp lên đến bề mặt. Nóng chảy từng phần được cho là đóng một vai trò quan trọng trong việc làm phong phú thêm bộ phận cũ của thạch quyển.[2] Nóng chảy từng phần được tạo ra ở chỗ sâu di chuyển trở lên do sự nén chặt của chất nền xung quanh.[3]

Bộ sưu tập ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Partial Melting”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2017.
  2. ^ Gibson, Sally A.; Jacqueline Malarkey; Jason A. Day (ngày 22 tháng 10 năm 2008). “Melt Depletion and Enrichment beneath the Western Kaapvaal Craton: Evidence from Finsch Peridotite Xenoliths”. Journal of Petrology. 49 (10): egn048. doi:10.1093/petrology/egn048. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2009.
  3. ^ McKenzie, Dan (ngày 1 tháng 4 năm 1987). “The compaction of igneous and sedimentary rocks”. Journal of the Geological Society. 144 (2): 299–307. doi:10.1144/gsjgs.144.2.0299. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2010.