ORP Generał Kazimierz Pułaski

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
ORP Generał Kazimierz Pułaski
Lịch sử
Poland
Tên gọi ORP Generał Kazimierz Pułaski
Đặt hàng 27 tháng 2 năm 1976
Đặt lườn 17 tháng 7 năm 1978
Hạ thủy 24 tháng 3 năm 1979
Nhập biên chế 25 tháng 6 năm 2000
Số tàu Pennant number: 272
Đặc điểm khái quát
Trọng tải choán nước 3,650
Chiều dài 135,6 m (444 ft 11 in)
Sườn ngang 13,7 m (44 ft 11 in)
Mớn nước 5,7 m (18 ft 8 in)
Tốc độ 29 knots (54 km/h/33 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 215 (17 officers and 198 enlisted)
Vũ khí
  • 2 × double tube anti-submarine torpedo mounts
  • 1 × 76 mm (3,0 in) Rapid Fire Dual Purpose Gun
  • 1 × hệ thống Vulcan Phalanx
  • 1 × hệ thống phóng tên lửa dẫn đường trang bị tên lửa đất đối không tiêu chuẩn
  • các tên lửa Boeing Harpoon
Máy bay mang theo ASW Kaman SH-2G Super Seasprite helicopter

ORP Generał Kazimierz Pułaski là một trong hai tàu frigate lớp Oliver Hazard Perry được trang bị tên lửa dẫn đường của Hải quân Ba Lan. Trước đó, tàu này phục vụ trong biên chế Hải quân Hoa Kỳ dưới tên USS Clark, sau khi được chuyển giao cho Ba Lan tàu được đổi theo tên Kazimierz Pułaski, một anh hùng trong chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ và đồng thời là anh hùng độc lập của Ba Lan.

Clark được loại biên vào ngày 15 tháng 3 năm 2000. Trong cùng ngày đó, tàu được chuyển giao cho Ba Lan. Tàu được trang bị hai động cơ LM-2500 gas turbines của General Electric và hai đơn vị đẩy phụ 350 sức ngựa (261 kW) chạy bằng điện.

Tàu được đổi tên vào ngày 25 tháng 6 năm 2000 trong một buổi lễ có sự tham dự của Madeleine Albright. Chỉ huy Marian Ambroziak là Sĩ quan Ba Lan chỉ huy đầu tiên của tàu. Generał Kazimierz Pułaski có cảng nhà đặt tại Gdynia (Oksywie), và đã tham gia nhiều cuộc tập trận chung với NATOBaltic.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Oliver Hazard Perry class frigate