Paavo Järvi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Paavo Järvi
Thông tin nghệ sĩ
Sinh30 tháng 12, 1962 (61 tuổi)
Tallinn, Estonia
Thể loạiCổ điển, đương đại
Nghề nghiệpNhạc trưởng
Websitehttp://www.paavojarvi.com/

Paavo Järvi (phiên âm tiếng Estonia: [ˈPɑːʋo ˈjærʋi]; sinh ngày 30 tháng 12 năm 1962) là một nhạc trưởng người Mỹ gốc Estonia.

Đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Järvi sinh ra ở Tallinn, Estonia, mẹ ông là Liilia Järvi còn cha là nhạc trưởng người Estonia Neeme Järvi. Anh chị em của ông bao gồm Kristjan Järvi và Maarika Järvi, đều là những nhạc sĩ. Sau khi rời Estonia, gia đình ông định cư ở Mỹ. Järvi học một thầy một trò với Leonid Grin ở Philadelphia tại Học viện Âm nhạc Curtis với Max Rudolf và Otto-Werner Mueller, cũng như tại Học viện Giao hưởng Los Angeles với Leonard Bernstein.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1994 đến 1997, Järvi là chỉ huy chính của Dàn nhạc Giao hưởng Malmö. Từ năm 1995 đến 1998, ông làm chức vụ chỉ huy chính của Dàn nhạc Giao hưởng Hoàng gia Stockholm với Andrew Davis. Järvi còn là giám đốc âm nhạc của Dàn nhạc giao hưởng Cincinnati từ năm 2001 đến năm 2011.[1] Dàn nhạc này đã thực hiện một số bản thu âm cho hãng Telarc trong nhiệm kỳ của Järvi. Vào tháng 5 năm 2011, ông được vinh danh là Giám đốc âm nhạc danh dự của dàn nhạc. Từ năm 2004, ông là Giám đốc Nghệ thuật của Dàn nhạc giao hưởng quốc gia Đức, Bremen và là Cố vấn Nghệ thuật cho Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Estonia. Năm 2006, Järvi trở thành Nhạc trưởng chính của Dàn nhạc Giao hưởng Đài phát thanh Frankfurt,[2] và đảm nhiệm vị trí này cho đến năm 2014. Năm 2010, ông trở thành Giám đốc âm nhạc của Dàn nhạc giao hưởng Paris,[3] kết thúc nhiệm kỳ của mình vào năm 2016. Cùng năm, ông được vinh danh là Nghệ sĩ của năm do cả tạp chí GramophoneDiapason bình chọn.[4]

Järvi và dàn nhạc giao hưởng đài phát thanh Frankfurt năm 2013

Järvi là người sáng lập và giám đốc nghệ thuật của cả Lễ hội Âm nhạc Pärnu và Dàn nhạc Lễ hội người Estonia. Järvi còn là khách mời đầu tiên chỉ huy Dàn nhạc Tonhalle vào năm 2009 và tái diễn vào tháng 12 năm 2016.[5] Vào tháng 5 năm 2017, Tonhalle-Orchester Zürich thông báo bổ nhiệm Järvi làm nhạc trưởng tiếp theo của họ, có hiệu lực từ 2019–2020, với hợp đồng ban đầu có thời hạn 5 năm.

Ngoài châu Âu, vào tháng 6 năm 2012, dàn nhạc giao hưởng đài NHK thông báo bổ nhiệm Järvi làm nhạc trưởng của mình, bắt đầu từ mùa 2015–2016, với hợp đồng ban đầu là ba năm,[6] được gia hạn thêm ba năm đến năm 2021. Vào tháng 11 năm 2019, NHK đã thông báo gia hạn hợp đồng của ông đến tháng 8 năm 2022, [7] vào thời điểm đó ông đã dự kiến từ chức với tư cách nhạc trưởng.[8]

Järvi đã thu âm cho các hãng như RCA, Deutsche Grammophon, PENTATONE, Telarc, ECM, BIS và Virgin Records. Bản thu âm Virgin Classics của ông về Sibelius Cantatas với Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Estonia, Dàn hợp xướng nam quốc gia Estonia và Dàn hợp xướng nữ Ellerhein đã giành được giải Grammy cho "Màn trình diễn hợp xướng xuất sắc nhất".

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Järvi có hai người con gái trong cuộc hôn nhân đầu với nghệ sĩ vĩ cầm Tatiana Berman.[9] Järvi đã xuất hiện trong bộ phim tài liệu Maestro, do David Donnelly đạo diễn. Ông trở thành công dân Mỹ năm 1985.[1]

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Ông có một số danh hiệu bao gồm:

  • 2012:
    • Giải thưởng Hindemith
    • Commandeur de L'Ordre des Arts et des Lettres
  • 2013: Huân chương ngôi sao trắng, Estonia
  • 2015: Huân chương Sibelius

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Gelfand, Janelle (25 tháng 1 năm 2000). “Search ends with CSO landing its choice”. The Cincinnati Enquirer. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2018.
  2. ^ “Orozco-Estrada wird neuer Chefdirigent” (Thông cáo báo chí). Hessischer Rundfunk. 4 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  3. ^ Matthew Westphal (31 tháng 5 năm 2007). “Paavo Järvi to Succeed Christoph Eschenbach at Helm of Orchestre de Paris”. Playbill Arts. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007.
  4. ^ Loomis, George (28 tháng 8 năm 2014). “France's New Music Temple”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2014.
  5. ^ “Neuer Chefdirigent und Künstlerischer Leiter des Tonhalle-Orchesters Zürich ab 2019/20” (PDF) (Thông cáo báo chí). Tonhalle-Orchester Zürich. 30 tháng 5 năm 2017. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  6. ^ “Paavo Järvi Appointed as Chief Conductor From the 2015/16 season” (Thông cáo báo chí). NHK Symphony Orchestra. 6 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
  7. ^ “Paavo Järvi Chief Conductor of the NHK Symphony Orchestra tenure extended to August 2022” (PDF) (Thông cáo báo chí). NHK Symphony Orchestra. 22 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2021.
  8. ^ “Fabio Luisi appointed as Chief Conductor of the NHK Symphony Orchestra, Tokyo from 2022/23 season” (Thông cáo báo chí). NHK Symphony Orchestra. 9 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2021.
  9. ^ Arenstein, Anne (11 tháng 10 năm 2011). “Combining Artistic Energies: The Constella Festival”. City Beat. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2012.