Thành viên:Hungmanh006

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Uzbekistan Cộng hoà Uzbekistan Oʻzbekiston Respublikasi (ngôn ngữ?)


Quốc kỳ Huy hiệu


Vị trí Uzbekistan (xanh) trên thế giới

Vị trí Uzbekistan (đỏ) trong khu vực Quốc ca Oʻzbekiston Respublikasining Davlat Madhiyasi Quốc ca Nhà nước Cộng hoà Uzbekistan

Trình đơn

0:00 Hành chính Chính phủ Cộng hoà lập hiến tổng thống

Tổng thống Shavkat Mirziyoyev

Thủ tướng Abdulla Oripov

Thủ đô Tashkent

Thành phố lớn nhất Tashkent

Địa lý Diện tích 448.978 km² (hạng 56)

Diện tích nước 4,9 % Múi giờ UZT (UTC+5)

Lịch sử Độc lập từ Liên Xô

1785 Vương quốc Bukhara 2 tháng 9 năm 1920 Cộng hoà Xô viết Nhân dân Bukhara 27 tháng 10 năm 1924 Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan

31 tháng 8 năm 1991 Tuyên bố độc lập 8 tháng 12 năm 1992 Hiến pháp hiện hành Dân cư Ngôn ngữ chính thức tiếng Uzbek (chính thức) tiếng Nga (liên dân tộc)

Sắc tộc Năm 1996: • 81,1% người Uzbek • 5,4% người Nga • 4,0% người Tajik có ước tính là 10%[3] • 3,0% người Kazakh • 2,5% người Karakalpak • 1,5% người Tatar • 2,5% khác [4]

Dân số ước lượng (2017) 32.979.000[1][2] người (hạng 42)

Mật độ 70,5 người/km² (hạng 132)

Kinh tế GDP (PPP) (2017) Tổng số: 222.792 billion[5](hạng 62) Bình quân đầu người: 7.023 USD[5] (hạng 125)

GDP (danh nghĩa) (2017) Tổng số: 68,324 tỉ USD[5](hạng 69) Bình quân đầu người: 2.154 USD[5] (hạng 130)

HDI (2015) 0,701[6] cao (hạng 105)

Đơn vị tiền tệ soʻm Uzbekistan (UZS)

Thông tin khác Tên miền Internet .uz

Uzbekistan (phiên âm tiếng Việt: U-giơ-bê-ki-xtan), tên chính thức Cộng hòa Uzbekistan (tiếng Uzbek: O‘zbekiston Respublikasi), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của Liên bang Xô viết. Nước này có chung biên giới với Kazakhstan ở phía tây và phía bắc, Kyrgyzstan và Tajikistan ở phía đông, và Afghanistan cùng Turkmenistan ở phía nam. Lãnh thổ hiện tại của Uzbekistan trong thời cổ đại là một phần của vùng nói ngữ chi Iran của Transoxiana, với các thành phố như Samarkand, Bukhara, và Khiva mà đã trở nên thịnh vượng nhờ Con đường tơ lụa. Những người định cư đầu tiên đến lãnh thổ này được gọi là những người Scythia. Các nền văn minh sớm nhất bao gồm Khwarezm (thế kỷ VIII-VI TCN), Bactria (thế kỷ VIII-VI TCN), Sogdiana (thế kỷ VIII-VI TCN), Fergana (thế kỷ III TCN - thế kỷ VI), và Margiana (thế kỷ III TCN - thế kỷ VI), do những bộ lạc Tây Iran lập ra. Khu vực này được kết hợp vào Đế quốc Ba Tư, và sau đó sụp đổ với cuộc chinh phục của người Hồi giáo vào thế kỷ thứ VII, biến phần lớn dân số thành tín đồ Hồi giáo. Sau sự kế nhiệm của các vua địa phương nhà Khwarezm-Shah trong thế kỷ XI, vùng này đã thất thủ trước cuộc xâm lược của Mông Cổ vào thế kỷ XIII. Thành phố Shahrisabz là nơi sinh của Thiếp Mộc Nhi, người trong thế kỷ XIV thành lập nhà Timur và tự tuyên bố là Đế Chế Tối cao Turan. Vùng này sau đó bị quân Uzbek Shaybanids chinh phục trong thế kỷ XVI, di chuyển trung tâm quyền lực từ Samarkand tới Bukhara. Khu vực này được chia thành ba tiểu bang: Khanate Khiva, Khanate Kokand, và Emirate của Bukhara. Nó đã được dần dần kết hợp vào Đế quốc Nga trong thế kỷ XIX, với Tashkent trở thành trung tâm chính trị của Turkestan thuộc Nga. Năm 1924, sau khi phân định quốc gia, nước cộng hòa cấu thành Liên Xô được biết đến với cái tên Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan được thành lập. Sau khi Liên Xô tan rã, quốc gia này tuyên bố độc lập với tên mới Cộng hòa Uzbekistan vào ngày 31 tháng 8 năm 1991.

Lịch sử[


Người Nga bị quân Khiva đánh bại ở Uzbekistan, Trung Á năm 1871 Bài chi tiết: Lịch sử Uzbekistan Vùng đất Uzbekistan có người ở từ hai nghìn năm trước Công nguyên. Có nhiều di tích về những công cụ và công trình của loài người từ thời kỳ sớm tại các vùng Ferghana, Tashkent, Bukhara, Khorezm (Khwarezm, Chorasmia) và Samarkand. Alexandros Đại Đế chinh phục Sogdiana và Bactria năm 327 trước Công nguyên, cưới Roxana, con gái của vị thủ lĩnh Bactrian địa phương. Tuy nhiên, cuộc chinh phục được cho là không mang lại nhiều kết quả cho Alexandros bởi những cuộc kháng chiến của người dân địa phương khá mãnh liệt, khiến quân đội của Alexandros bị sa lầy trong vùng. Trong nhiều thế kỷ vùng Uzbekistan nằm dưới quyền cai trị của các Đế chế Iran như Đế chế Parthian và Sassanid. Ở thế kỷ XIV, Timur, thường được gọi là Tamerlane ở phương tây, nổi lên thay thế người Mông Cổ và xây dựng một đế chế. Trong các chiến dịch quân sự của mình, Tamerlane đã tiến xa tới tận Trung Đông. Ông đánh bại Hoàng đế Đế chế Thổ Nhĩ Kỳ OttomanBayezid I. Bayezid bị bắt và chết trong khi bị giam cầm. Tamerlane tìm cách xây dựng thủ đô đế chế của mình tại Samarkand. Ngày nay Tamerlane được coi là một trong những anh hùng vĩ đại nhất của Ụzbekistan, là người đóng vai trò quan trọng trong lịch sử và đặc tính quốc gia. Sau sự sụp đổ của Đế chế Timurid, những người du mục Uzbek đã chinh phục vùng này. Ở thế kỷ XIX, Đế chế Nga bắt đầu mở rộng và kéo dài tới tận Trung Á. Giai đoạn "Great Game" nói chung được coi là bắt đầu từ khoảng năm 1813 cho tới Hiệp ước Anh Nga năm 1907. Sau cuộc cách mạng của những người Bolshevik năm 1917, một thời kỳ ổn định hơn diễn ra. Đầu thế kỷ XIX, một vùng đất khoảng 2.000 dặm (3.200 km) chia cắt Ấn Độ thuộc Anh và những vùng xa xôi của nước Nga Sa Hoàng. Đa số vùng đất đệm này còn chưa được vẽ bản đồ. Tới đầu thế kỷ XX, Trung Á đã hoàn tay rơi vào tay người Nga dù một số cuộc kháng chiến chống người Bolsheviks có xảy ra trong thời kỳ đầu, Uzbekistan và phần còn lại của Trung Á trở thành một phần của Liên bang Xô viết. Ngày 31 tháng 8 năm 1991, Uzbekistan bất đắc dĩ tuyên bố độc lập, và ngày 1 tháng 9 trở thành ngày quốc khánh. Nước này hiện đang tìm cách dần giảm sự phục thuộc vào nông nghiệp - đây là nước xuất khẩu bông lớn thứ hai thế giới - trong khi vẫn phát triển các nguồn tài nguyên khoáng sản và dầu mỏ. Địa lý[


Bản đồ Uzbekistan Bài chi tiết: Địa lý Uzbekistan Uzbekistan có diện tích 447.400 kilômét vuông. Đây là nước lớn thứ 56 trên thế giới. Uzbekistan trải dài 1.425 kilômét từ tây sang đông và 930 kilômét từ bắc tới nam. Giáp biên giới với Turkmenistan ở phía tây nam, Kazakhstan và Biển Aral ở phía bắc, và Tajikistancùng Kyrgyzstan ở phía nam và phía đông, Uzbekistan không phải là một trong những nước lớn nhất vùng Trung Á nhưng là quốc gia Trung Á duy nhất giáp biên giới với tất cả bốn nước kia. Uzbekistan cũng giáp biên giới với Afghanistan ở phía nam. Uzbekistan là một quốc gia nằm kín trong lục địa; 10% lãnh thổ nước này có thể trồng trọt thâm canh nhờ nước tưới tiêu từ các lưu vực sông. Đây là một trong hai quốc gia duy nhất chỉ giáp với các quốc gia nôin lục khác - nước kia là Liechtenstein; song trường hợp của Uzbekistan không rõ ràng bằng do họ giáp biên giới với hai nước (Kazakhstan ở phía bắc và Turkmenistan ở phía nam) giáp với Biển Caspi kín trong lục địa nhưng từ đây tàu thủy có thể đi tới Biển Azov và từ đó tới Biển Đen, Địa Trung Hải và các đại dương khác. Điểm cao nhất tại Uzbekistan là Adelunga Toghi ở độ cao 4.301 mét (14.111 ft). Khí hậu Cộng hòa Uzbekistan là khí hậu lục địa, với lượng mưa hàng năm khoảng 100-200 milimét. Nhiệt độ trung bình mùa hè thường khoảng 400C, mùa đông khoảng -230C. [1] Các thành phố lớn gồm: Bukhara, Samarqand và Tashkent. Tỉnh[ Bài chi tiết: Phân cấp hành chính Uzbekistan Uzbekistan được chia thành mười hai tỉnh (viloyatlar, số ít viloyat; viloyati từ ghép, ví dụ Toshkent viloyati, Samarqand viloyati, vân vân), một nước cộng hòa tự trị (respublika; respublikasi từ ghép, ví dụ Qaraqalpaqstan Avtonom Respublikasi, Karakalpakistan Cộng hòa Tự trị, vân vân), và một thành phố độc lập (shahar; shahri từ ghép, ví dụ thành phố Tashkent với một chữ K, Toshkent shahri). Các tên được đặt theo ngôn ngữ Uzbek, dù nhiều biến thể trong khi dịch qua ngôn ngữ khác vẫn tồn tại.

Phân loại Thành phố thủ phủ Diện tích (km²) Dân số Key Andijon Viloyati Andijon 4.200 1.899.000 2 Buxoro Viloyati Buxoro (Bukhara) 39.400 1.384.700 3 Farg'ona Viloyati Farg'ona (Fergana)  6.800 2.597.000 4 Jizzax Viloyati Jizzax 20.500 910.500 5 Xorazm Viloyati Urganch 6.300  1.200.000 13 Namangan Viloyati Namangan 7.900 1.862.000 6 Navoiy Viloyati Navoiy 110.800 767.500 7 Qashqadaryo Viloyati Qarshi 28.400 2.029.000 8 Qaraqalpaqstan Respublikasi Nukus 160.000 1.200.000 14 Samarqand Viloyati Samarqand 16.400  2.322.000 9 Sirdaryo Viloyati Guliston 5.100 648.100 10 Surxondaryo Viloyati Termez 20.800 1.676.000 11 Toshkent Viloyati Toshkent (Tashkent) 15.300  4.450.000 12 Toshkent Shahri Toshkent (Tashkent) Không dữ liệu 2.205.000 1 Số thống kê cho Toshkent Viloyati cũng gồm số thống kê của Toshkent Shahri. Kinh tế[] Bài chi tiết: Kinh tế Uzbekistan Cùng với nhiều nền kinh tế của các quốc gia thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập khác, kinh tế Uzbekistan gần đây có mức độ phát triển kinh tế rất cao, tới 9.1% trong quý đầu năm 2007, và mức lạm phát thấp 2.9%. [2] Tính đến năm 2016, GDP của Uzbekistan đạt 66,797 tỉ USD, đứng thứ 74 thế giới, đứng thứ 26 châu Á và đứng thứ 2 Trung Á sau Kazakhstan. Uzbekistan là quốc gia có mức GNI trên đầu người đạt US$460 và Sức mua tương đương đạt US$1860 [3]. Sản xuất kinh tế tập trung ở hàng tiêu dùng: Uzbekistan hiện là nước sản xuất lớn thứ tư thế giới và là nước xuất khẩu bông lớn thứ hai thế giới, thứ bảy thế giới về sản xuất vàng. Theo vùng, đây cũng là nước sản xuất khí gas, đồng, than, dầu mỏ, bạc và uranium khá quan trọng [4]. Nông nghiệp đóng góp khoảng 37% GDP và sử dụng 44% nguồn nhân lực [5]. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm được ước tính dưới 20% [6].


Tashkent, thủ đô Uzbekistan. Đối mặt với nhiều thách thức kinh tế từ khi giành lại độc lập, chính phủ đã chấp nhận một chiến lược cải cách mang tính cách mạng, với sự nhấn mạnh trên sự kiểm soát của nhà nước, giảm nhập khẩu và tự cung cấp trong lĩnh vực năng lượng. Từ năm 1994, các phương tiên truyền thông thuộc quản lý của nhà nước đã nhiều lần tuyên bố sự thành công của "Mô hình Kinh tế Uzbek" này [7] coi đó là ví dụ duy nhất về sự chuyển tiếp êm ả sang nền kinh tế thị trường, tránh được tình trạng sốc, sự bần cùng hóa và sự trì trệ. Chiến lược cải cách dần dần đã khiến nhiều kế hoạch cải cách cơ cấu và kinh tế vĩ mô bị trì hoãn. Chính quyền trong tay giới công chức quan liêu vãn giữ ảnh hưởng mạnh trong nền kinh tế. Tham nhũng lan tràn xã hội: Chỉ số Nhận thức Tham nhũng Uzbekistan năm 2005 là 137 trong số 159 quốc gia. Một báo cáo tháng 2 năm 2006 về nước này của Nhóm Khủng hoảng Quốc tế đã viết về một khía cạnh của tình trạng tham nhũng này: Đa phần tăng trưởng GDP Uzbekistan xuất phát từ giá cả cao của những loại hàng xuất khẩu quan trọng, đặc biệt là vàng, bông và nguồn thu ngày càng tăng từ khí gas, nhưng nguồn thu này chỉ được phân chia trong một nhóm rất nhỏ cầm quyền, đại đa số nhân dân có rất ít hoặc không một chút nào từ các khoản thu này. [8] [9]. Theo Economist Intelligence Unit, "chính phủ tỏ thái độ kiên quyết không cho phép phát triển một lĩnh vực tư nhân độc lập, lĩnh vực họ không thể kiểm soát" [10]. Vì thế, giới trưởng giả nói chung và tầng lớp trung lưu nói riêng, đang bị cách ly về mặt kinh tế, và vì thế, cả với chính trị. Các chính sách kinh tế đã làm nản lòng giới đầu tư, với mức đầu tư trên đầu người ở mức thấp nhất trong Cộng đồng các quốc gia độc lập [11]. Trong nhiều năm, rào cản lớn nhất với các công ty nước ngoài muốn vào thị trường Uzbek là sự khó khăn trong chuyển đổi tiền tệ. Năm 2003, chính phủ đã chấp nhận những bắt buộc của Điều VIII của Quỹ Tiền tệ Quốc tế [12], cho phép tự do chuyển đổi tiền tệ. Tuy nhiên, những biện pháp quản lý tiền tệ chặt chẽ và kiểm soát biên giới đã khiến những hiệu quả mang lại của việc này không lớn. Lạm phát, dù ở mức thấp hơn thời gian giữa thập niên 1990, vẫn còn cao cho tới tận năm 2003 (ước tính 50% năm 2002, 21.9% năm 2003, [13]). Các chính sách kinh tế chặt chẽ năm 2004 đã khiến lạm phát giảm mạnh, xuống còn 3.8% (tuy nhiên những ước tính khác [14] dựa trên rổ thị trường thực ở mức 15%). Tuy nhiên, sự giảm lạm phát dường như chỉ thoảng qua, bởi theo ước tính của IMF về chỉ số giá tiêu thụ dựa trên lạm phát tại Uzbekistan năm 2005 là 14.1% [15]. Chính phủ Uzbekistan hạn chế nhập khẩu bằng nhiều cách, gồm cả đánh thuế nhập khẩu cao. Các loại thuế áp dụng mang tính phân biệt cao để bảo vệ các sản phẩm sản xuất trong nước. Các mức thuế chính thức được công thêm các khoản không chính thức, các khoản phí mang tính phân biệt khiến tổng số tiền phải trả lên tới 100 hay 150 phần trăm giá trị thực của sản phẩm, khiến những sản phẩm nhập khẩu có giá thành không thể chấp nhận với người tiêu dùng [16]. Thay thế xuất khẩu là một chính sách được tuyên bố chính thức và chính phủ đã lấy làm hãnh diện thông báo [17] con số hàng tiêu dùng nhập khẩu đã giảm hai lần. Một số quốc gia thuộc cộng đồng các quốc gia độc lập được chính thức miễn trừ các khoản thuế nhập khẩu của Uzbekistan. Kinh doanh tại Uzbekistan không đơn giản. Nó đòi hỏi nhiều đầu tư và mối quan hệ với tầng lớp cầm quyền. Tuy nhiên, lợi nhuận hàng năm có thể thu được sẽ ở trong khoảng 30-40%. Lĩnh vực đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận nhất hiện tại là bất động sản. Trong năm 2006, bất động sản đã tăng trưởng tới 80%. [18] Nhân khẩu[


Bài chi tiết: Nhân khẩu Uzbekistan Uzbekistan là nước đông dân nhất vùng Trung Á. Dân số nước này ước tính đạt 27,7 triệu người[4], tập trung tại phía nam và phía đông đất nước, chiếm tới gần một nửa dân số trong vùng. Uzbekistan từng là một trong những nước cộng hòa nghèo nhất thuộc Liên bang Xô viết[cần dẫn nguồn]; đa số dân cư nước này tham gia vào ngành nông nghiệp bông tại các hợp tác xã nhỏ (kolkhozy). Trong những năm gần đây, số lượng dân nông thôn tiếp tục gia tăng [19] hiện ở mức 63.5%. Dân số Uzbekistan rất trẻ: 34.1% dân dưới 14 tuổi. Người Uzbek chiếm đa số dân (80%). Các nhóm sắc tộc khác gồm người Nga 5.5%, Tajik 5%, Kazakh 3%, Karakalpak 2.5%, và Tatar 1.5%[7]. Cũng có một nhóm sắc tộc người Triều Tiên đã bị buộc phải di dời tới Uzbekistan theo lệnh của Stalin trong thập niên 1930. 88% dân số là tín đồ Hồi giáo (chủ yếu thuộc dòng Sunni, với nhóm thiểu số 5% Shi'a), 9% Nhà thờ chính thống Phương đôngvà 3% theo những đức tin khác. Theo Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2004 của Bộ ngoại giao Mỹ 0.2% dân số theo Đạo Phật(những người này thuộc cộng đồng Triều Tiên). Tương tự, ước tính 93.000 người Do thái từng sống tại Uzbekistan đầu thập niên 1990 (nguồn Thư viện Quốc hội Nghiên cứu Quốc gia). Uzbek là ngôn ngữ chính thức duy nhất của quốc gia. Tuy nhiên, tiếng Nga trên thực tế là ngôn ngữ giao tiếp giữa các cộng đồng sắc tộc, gồm cả được sử dụng đa số trong kỹ thuật, khoa học, văn bản chính phủ và công việc kinh doanh hàng ngày. Theo dân tộc học, 49% dân số Uzbekistan nói tiếng Nga. Tiếng Tajik được sử dụng rộng rãi tại thành phố Samarkand và Bukhara. Có một số tranh cãi liên quan tới số phần trăm dân số Tajik. Trong khi các con số chính thức của Uzbekistan cho rằng số lượng là 5%, một số học giả phương Tây tin rằng con số này cao hơn, lên tới 40%[8]. Theo những con số của chính phủ khoảng 817.000 người tàn tật được đăng ký tại Uzbekistan năm 2003.[cần dẫn nguồn] Tổ chức Y tế Thế giới ước tính khoảng 10% số dân mỗi nước là người tàn tật.[cần dẫn nguồn] Cái tên "Uzbek", vừa để chỉ dân tộc vừa để chỉ quốc gia, được cho là có liên quan tới gia đoạn chạm trán đầu tiên với người Nga, câu ozum bek, hay "Tôi là chúa tể (người cai trị)".[cần dẫn nguồn] Uzbekistan có tỷ lệ biết chữ 99.3% (trong số người lớn hơn 15 tuổi), một phần nhờ hệ thống giáo dục miễn phí và phổ thông thời Liên bang Xô viết.