Thành viên:LY DANG THANH

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT NAM

Người Việt Nam đang sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay là tập hợp các cộng đồng người Kinh chiếm đa số (82%) và 53 cộng đồng người thuộc sắc tộc thiểu số. Người Kinh không phải là một cộng đồng dân tộc thuần nhất, mà là tập hợp của hàng chục sắc tộc đã từng lai tạp đồng hóa với nhau trong quá khứ của ba cộng đồng chánh, nhưng ngày nay đều có chung một đặc tính thống nhất về phong tục tập quán và sử dụng hoàn toàn Việt ngữ.

- Người Việt Hồng Hà: là cộng đồng người Việt cổ thuộc tiểu chủng Nam Á, cư trú từ xa xưa trên châu thổ sông Hồng, thuộc nền văn minh di chỉ Hòa Bình và Đông Sơn, lai tạp với các sắc dân Âu Lạc, Tây Tạng và Trung Hoa, thuộc tiểu chủng Mongoloist di cư từ phương bắc xuống Bắc Việt trong quá trình lập quốc và Bắc thuộc hàng ngàn năm.

- Người Việt Champa: là cộng đồng người thuộc tiểu chủng Nam Á, cư trú trên lãnh thổ thuộc các triều đại Champa từng tồn tại trên lãnh thổ miền Trung Việt từ Quảng Bình đến Bình Thuận ngày nay, thuộc nền văn minh di chỉ Sa Huỳnh, lai tạp với một thiểu số người Việt Hồng Hà và Trung Hoa từ phía bắc di cư xuống, với người Khmer và Ấn Độ từ phía tây di cư sang, sau đó chấp nhận chánh sách cưỡng bức đồng hóa của triều đình Đại Việt, hoàn toàn trở thành người Kinh, sử dụng Việt ngữ và theo phong tục tập quán của người Việt Hồng Hà.

- Người Việt Phù Nam: là cộng đồng người thuộc tiểu chủng Nam Á lai tạp với một thiểu số người Ấn Độ từ phía tây di cư sang, cư trú trên lãnh thổ thuộc các triều đại Phù Nam từng tồn tại trên châu thổ sông Cửu Long ngày nay, thuộc nền văn minh di chỉ Óc Eo, sau đó lại lai tạp với một thiểu số người Khmer từ phía bắc di cư xuống sau khi Vương quốc Phù Nam bị người Khmer thôn tính, rồi lại tiếp tục lai tạp với một thiểu số người Việt Champa và Trung Hoa từ phía đông bắc di cư xuống, chấp nhận chánh sách cưỡng bức đồng hóa của triều đình Đàng Trong-Việt Nam-Đại Nam, hoàn toàn trở thành người Kinh, sử dụng Việt ngữ và theo phong tục tập quán thống nhất của người Việt Hồng Hà.

Mỗi khi bộ phận người này bị hoạn nạn, như thiên tai bão lụt hạn hán thì kêu gọi: ‘Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn’. Lập tức người trong nước đều cùng nhau quyên góp cưu mang đùm bọc.

Dưới thời vua Minh Mạng áp dụng chánh sách thống nhất dân tộc để dễ cai trị, gọi chung ba cộng đồng cùng sử dụng Việt ngữ (Việt Hồng Hà, Việt Champa, Việt Phù Nam) là người Kinh, tức người do Kinh đô Huế trực trị và đã hoàn toàn thuần phục, để phân biệt với các sắc dân mà triều đình Huế gọi là “man di” chưa được hoàn toàn giáo hóa, thường sống tự trị và tập trung ở vùng rừng núi, thường gọi là người Thượng, người Man hay người Mọi.