Thảo luận:Nhà mồ Tây Nguyên

Nội dung trang không được hỗ trợ ở ngôn ngữ khác.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Câu hỏi[sửa mã nguồn]

Có ai biết phần được viết thêm, về nhà mồ tại viện bảo tàng, có ký tên Nguyễn Trường Giang và được viết bởi Thành viên:202.151.162.90, có vi phạm bản quyền của ai không? Văn phong của bài này có tính chất của một bài nghiên cứu (research) mà chúng ta không được biết là tác giả có cho phép mang vào Wikipedia không. Hơn nữa, một nghiên cứu nguyên thủy, theo đúng quy luật của Wikipedia, không được mang vào đây. Mekong Bluesman 13:04, 8 tháng 8 2006 (UTC)

Tôi thấy ở A Lưới vẫn có nhà mồ. Lưu Ly 08:01, ngày 20 tháng 11 năm 2007 (UTC)[trả lời]

Chắc thế. Trong Bảo tàng Dân tộc Việt Nam có một nhà mồ của người Cơ Tu ở A Lưới dựng cho.--Bình Giang 08:03, ngày 20 tháng 11 năm 2007 (UTC)[trả lời]
Trong đó có một cái hòm chứa hài cốt người chết, nghe nói sau khi cải táng thì mới được đưa lên nhà mồ, để nổi lên khỏi đất, và treo nhiều đầu trâu, dê...rất dễ sợ.Lưu Ly 08:07, ngày 20 tháng 11 năm 2007 (UTC)[trả lời]

Lưu đoạn chỉ nói riêng về ngôi nhà mồ của người Gia Rai ở Bảo tầng Dân tộ học Việt Nam[sửa mã nguồn]

Ngôi nhà mồ ở Bảo tàng Dân tộc học[sửa mã nguồn]

Ngôi nhà mồ hiện đang trưng bày theo tiếng Gia-rai là Xát-char(nhà mồ vẽ) thuộc nhóm Gia-rai Aráp, được sưu tầm tại làng Mrông, xã Iaka, huyện Chư pảh tỉnh Gia-Lai, và dựng bởi 5 thợ địa phương là người dân tộc Gia-rai, do nghệ nhân Rơ Chom Uek 68 tuổi, làm trưởng nhóm. Về hình dáng bên ngoài, đây là kiểu nhà trệt, hình chữ nhật, hai mái chính hình thang cân, đều có phên đan bằng nan lồ ô phủ lên trên, hai mái này được vẽ hoa văn trang trí. Phía hai đầu nóc nhà có bộ phận khau-cút hình cây rau dớn vểnh lên. Nhà mồ có chiều dài 8,00 m, chiều rộng 2,30 m, cao 2,50 m, phía ngoài song song với bức vách là hàng rào cao 0,80-0,85 m dựng bằng gỗ tròn chôn sát vào nhau, nếu tính cả hàng rào bao quanh thì diện tích khoảng 45-55 m². Phía trong ngôi nhà mồ có một số ít đồ tuỳ táng như: ché bị đập thủng đáy (theo quan niệm của người Gia-rai, đồ tuỳ táng vỡ ở trên dương lại là lành nặn đối với âm) được chôn chìm xuống đất chỉ để hở phần cổ miệng, một ít vỏ bầu, một vài chiếc gùi và hai bộ dụng cụ dệt, dụng cụ làm rẫy: dao, rìu, cuốc rẫy cỏ. Phần ngoài cùng của chính diện ngôi nhà (mặt phía đông) có một gian tế bằng gỗ. Tại hàng rào phía đông có hai cửa để người sống vào thăm nom nhà mồ. Phía ngoài cùng của hàng rào, mặt phía tây ngôi nhà có chôn 8 cột để buộc trâu bò (gâng) trong lễ bỏ mả, mỗi cột đều có dây để buộc vào cổ con vật bị hiến sinh. Đây là ngôi nhà mồ được làm với quy mô tương đối lớn và là ngôi nhà mồ của người khá giả trong xã hội, trên thực tế với diện tích như vậy, người Gia-rai có thể làm mộ táng cho 30-35 người chết. Phần độc đáo và hấp dẫn nhất phải kể đến 27 tượng gỗ bao quanh ngôi nhà mồ sẽ được chúng tôi đề cập trên 3 lĩnh vực: kỹ thuật đẽo tượng, tính nghệ thuật thể hiện trong tượng mồ, tên gọi và ý nghĩa của một vài lớp tượng.

Tên gọi và ý nghĩa của một số lớp tượng mồ[sửa mã nguồn]

Số lượng tượng bao quanh ngôi nhà mồ Gia-rai A ráp tại bảo tàng gồm 27 bức, chia thành 5 lớp, ở mỗi lớp tượng chúng tôi cố gắng nêu lên tên gọi và cách giải thích.

Lớp tượng thứ nhất
Tượng hình người ôm mặt

Tượng người ôm mặt (mặt trước) Tượng người ôm mặt (mặt nghiêng) Lớp tượng ôm mặt gồm có 5 bức, trong đó có 4 bức được chôn ở bốn góc nhà mồ, mặt tượng quay theo 4 hướng đông, tây, nam, bắc, riêng mặt phía đông của ngôi nhà mồ có thêm 1 tượng ở chính giữa hàng rào. Tượng ôm mặt (kra-kôm), tư thế ngồi xổm, hai khuỷu tay chống lên hai đầu gối và hai bàn tay ôm lấy má. Về vị trí chôn tượng mang tính phổ biến giống như bất cứ ngôi nhà mồ A ráp nào ở Tây Nguyên là cách chôn tượng ôm mặt ở 4 góc nhà mồ. Theo các tài liệu nghiên cứu, lớp tượng này được coi là lớp tượng cổ nhất, xoay quanh bức tượng ôm mặt có nhiều cách giải thích khác nhau. Những người địa phương gọi tượng là kra-kôm; kra theo tiếng Gia-rai nghĩa là "con khỉ", theo đồng bào giải thính đó chính là nô lệ (hlun) thường được chôn theo người chết, sau này người ta không chôn theo nô lệ nữa mà thay thế bằng tượng gỗ. Giắc Đuốc (?), nhà dân tộc học người Pháp, người nhiều năm sinh sống với người Gia-rai, đưa ra cách giải thích tượng tự. Thông qua việc nghiên cứu các truyền thuyết liên quan đến tượng mồ, những đoạn sử thi nói về bỏ mả, Giắc Đuốc cho rằng, loại tượng này nằm trong nhóm tượng thể hiện những người, vật đi theo phục vụ, hầu hạ người chết. Vì ông cho rằng, trong xã hội cổ truyền của người Gia-rai có một số tù trưởng hùng mạnh có quyền bắt và nuôi nô lệ trong nhà, những nô lệ này cũng chỉ được coi như vật ngang giá như những đồ vật khác, và khi người tù trưởng chết, nô lệ cũng được chôn theo như đồ tuỳ táng. Có một cách giải thính khác của tiến sỹ Ngô Văn Doanh về lớp tượng này khi ông dựa vào tư thế của bức tượng hình người ôm mặt, ông cho rằng đó là "những sinh linh ngồi trong tư thế bào thai" 3 ông tìm thấy được nghĩa bóng của từ kra trong tiếng Gia-rai, là từ chỉ về sự hình thành của một con người chưa hoàn chỉnh, do đó ông cho rằng tượng hình người ôm mặt là tượng một bào thai đang nằm trong bụng mẹ. Theo chúng tôi, những cách giải thính trên chưa thật thuyết phục vì việc chôn nô lệ theo người chết trong lịch sử không phải là phổ biến ở tộc người Gia-rai, do vậy khó có thể thay thế vật chôn theo là nô lệ bằng tượng gỗ. Mặt khác, trực quan cũng như kiến thức về giải phẫu học của người Gia-rai chưa đủ trình độ để nhận biết được tư thế của bào thai nằm trong bụng mẹ, chưa nói đến tư thế đó là ngược với thực tế. Chúng tôi thì cho rằng, ý nghĩa của lớp tượng ôm mặt lại xuất phát ngay từ tập quán thăm nuôi mả của người Gia-rai. Theo phong tục, khi chưa làm lễ bỏ mả cho người chết, hàng ngày người thân trong gia đình phải mang cơm, nước ra mộ để nuôi mả, nghĩa là đem cơm nước cho người chết ăn, uống. Người thân ngồi khóc, kể lại những kỷ niệm của người chết khi còn sống. Lúc khóc người ta thường ngồi xổm, hai tay chống hai đầu gối, bàn tay ôm lấy má của mình, tư thế này được coi là phổ biến trong bất cứ khu nghĩa địa nào của người Gia-rai ở Tây Nguyên. Việc thăm nuôi mả chỉ được kết thúc khi người ta tiến hành nghi lễ bỏ mả để giải thoát cho ma của người chết về với tổ tiên. Để chuẩn bị cho cuộc chia tay vĩnh viễn đó người chủ hộ thường đẽo lấy tượng có tư thế ôm mặt rồi dựng tại nhà mồ, coi nó như một người trong gia đình, hàng ngày vẫn đến thăm nuôi, ngồi bên mộ buồn khóc người đã chết.

Lớp tượng thứ 2
lớp tượng liên quan đến tín ngưỡng phồn thực với hai 3 dạng biểu hiện: nam nữ giao hợp, đàn ông, đàn bà khoe bộ phận sinh dục, đàn bà chửa.

Chúng tôi liệt kê ra đây số tượng mang dấu ấn tín ngưỡng phồn thực, ở hàng rào mặt phía đông của nhà mồ này có: 3 cặp nam nữ giao hợp (đơ-mơi-tui sang), 1 tượng đàn bà chửa (gra-bor-bi-mau cây), mặt phía tây có: 1 tượng đàn bà chửa, một tượng đàn ông khoe dương vật (rúp-dak-kơng), 1 tượng phụ nữ cởi truồng (gra-lâu-hyôn), mặt phía nam: 1 tượng đàn bà chửa, mặt phía bắc có: một tượng đàn bà ở truồng, 1 đàn ông khoe dương vật. Như vậy có tới 14 bức tượng liên quan đến tín ngưỡng phồn thực trong tổng số 27 bức tượng. Những bức tượng kiểu này mang tính phổ biến ở nhà mồ của nhóm Gia-rai A ráp. Trên thực tế, ngôi nhà mồ làng Kép, xã Iamnông, huyện Chưpah, tỉnh Gia Lai được dân địa phương bỏ vào tháng 3 năm 1997, trong tổng số 30 tượng diễn tả đời sống của người Gia-rai có tới 5 cặp tượng thể hiện cảnh nam nữ giao hợp.

Trước đây những nghiên cứu về Tây Nguyên cho thấy, trên các cột kút và cột klao ở nhà mồ thuộc nhóm Gia-rai khác thường có trang trí cặp ngà voi tượng trưng cho cặp vú, dưới cặp vú – ngà voi thường được khắc hình âm vật cách điệu dưới dạng các hình hoa thị, chữ thập, cũng trên các cặp cột này luôn luôn có hình cặp đùi, háng, bẹn và âm hộ bà Hơkroih, biểu tượng của phồn thực của cư dân nông nghiệp4. Nhưng cặp tượng, bức tượng mà chúng tôi nêu ra đây không còn tính cách điệu nữa mà những chi tiết liên quan đến bộ phận sinh dục đều được đặc tả và phóng đại, đặc biệt là bức tượng đàn ông khoe dương vật hoặc đàn bà ở truồng (h3, h4). Vì vậy, ở những ngôi nhà mồ thuộc nhóm Gia-rai Aráp ta còn tìm được một hình tượng nghệ thuật đặc biệt, đó là mối quan hệ giữa những quan niệm về tang ma với biểu tượng phồn thực. Những cặp tượng nam nữ giao hoan (h2) được khắc họa một cánh tự nhiên với nhiều tư thế, tư thế nào cũng mang tính chủ động. Xuất phát từ trực quan, từ mối liên hệ nhân quả của các sự kiện, hiện tượng trong cuộc sống, sau khi khắc họa những cặp tượng giao hợp của đôi nam nữ, người thợ Gia–rai đã đẽo tượng đàn bà chửa (hình 5) thể hiện hệ quả tất yếu của hoạt động tính giao. Những bức tượng nam nữ giao hợp, nam nữ phô bày bộ phận sinh dục, đàn bà chửa được chôn ngay trên mộ của người chết, không đơn thuần chỉ là để làm cho không khí nhà mồ thêm vui nhộn trong buổi lễ bỏ mả như cách giải thích của một số người Gia-rai, mà nó còn gắn liền với một niềm tin về sự chấm dứt của cái chết và sự bắt đầu của một cuộc sống mới, vượt lên cái chết là những hoạt động nhằm sinh sôi nảy nở cuộc sống mới, tạo ra những mầm mống phôi thai của một cuộc sống mới. Có thể nói, lớp tượng này là một bằng chứng mạnh mẽ, có tính thuyết phục khẳng định tín ngưỡng phồn thực của người Gia-rai Aráp đã tồn tại trong của lịch sử tộc người này với những dạng biểu hiện cơ bản: cơ quan sinh dục nam nữ, bản thân hành vi giao phối và kết quả của việc giao phối. Cho nên, không có gì đáng ngạc nhiên, trong những đêm diễn ra lễ hội bỏ mả, theo một số người già đã từng tham gia lễ hội bỏ mả cánh đây mấy chục năm cho biết, từng là những đêm hoàn toàn tự do đối với nam nữ chưa vợ chồng. Lễ hội bỏ mả còn được coi như ngày giải phóng đối với đàn ông goá vợ, đàn bà goá chồng thoát khỏi sự giàng buộc vợ-chồng với người đã chết, sau lễ hội này người ta có thể kết hôn với người khác mà không sợ phạm vào điều cấm kỵ của luật tục. Đúng như nhận xét: "đây là thời điểm giao thoa giữa Chết và Sống, từ Chết trở về với Sống, giữa cảnh Chết mà chuẩn bị cho cuộc Sống. Cũng vậy, về đôi nam nữ trần truồng thường chiếm vị trí quan trọng nhất giữa các tượng bao quanh "nhà ma.""5

Lớp tượng thứ 3
Tượng người mặt dài (nuih-ha-bok-ró)

Tượng mặt dài Tượng được thể hiện với hình dáng người không có thân, cổ hình cây rau dớn (ktoanh), khuôn mặt được đẽo dài. Mặc dù ở ngôi nhà mồ này chỉ có một tượng mặt dài nhưng chúng tôi vẫn xếp vào một lớp tượng riêng biệt. Bước đầu tìm hiểu chúng tôi nhận biết đây là tượng liên quan đến nghi thức cuối cùng của lễ hội bỏ mả. Người ta cho biết bức tượng này chính là biến thể của bram, người được hoá trang và rời khỏi nhà mồ cuối cùng trong lễ hội bỏ mả. Theo phong tục địa phương bram thường là hai thanh niên khỏe mạnh, mặc áo lá chuối, trát đầy bùn đầy người, đầu cắm lông chim, luôn nhảy múa quanh nhà mồ. Vì theo quan niệm của người Gia-rai bỏ mả là ngày vui cuối cùng với người chết, ngày vui sắp hết, người ta sợ ma (a-tâu) sẽ theo người thân về làng phá rối cuộc sống yên lành của người sống, nên dân làng đã hoá trang ra những hình người bram gớm ghiếc để ma sợ hãi, không nhận ra người thân, người cùng làng mà theo về. Những bram này phải rời khỏi nhà mồ trước khi Mặt Trời lặn vì ở cõi âm ngày là đêm, ánh sáng trên cõi dương chưa kịp tắt thì vẫn là đêm tối mông lung ở cõi âm, vì vậy mà ma cũng chẳng nhớ đường trở về làng của người sống. Sau cùng để cho thật sự yên tâm, phòng tránh khả năng ma theo người về làng quấy phá người sống, trong khi đẽo tượng người ta đẽo lấy một hình người mặt dài mô phỏng hình ảnh của bram rồi chôn ở nhà mồ, coi tượng bram như một thứ bùa áng ngữ lối về của ma. Chúng tôi cũng chưa tìm được cách giải thính nào có tính thuyết phục hơn về lớp tượng này, đây vẫn là vấn đề tồn nghi?

Là lớp tượng ra đời muộn hơn, tượng diễn tả những sinh hoạt thường ngày của người dân Gia-rai. Từ cuộc sống, thông qua ngôn ngữ tạo hình, hoạt động của con người đi vào trong tác phẩm điêu khắc một cách tự nhiên, gợi cảm. Đặc biệt là những bức tượng thể hiện những hoạt động của con người trong đêm lễ hội bỏ mả.

Tượng cô gái chia cơm lam (gra-nhá-brơng-kuach), được gắn với bữa ăn bỏ mả truyền thống của người Gia-rai, một bữa ăn có tính cộng đồng lớn nhất. Trong bữa ăn bỏ mả, tất cả mọi người đến dự lễ đều được ăn, được uống, được mang phần về nhà mình. Từ tối hôm trước của ngày bỏ mả chính (ngày vỡ-pchă), món cam lam, hay còn gọi là món cơm nướng trong ống (brơng-kuach) thường được những cô gái Gia-rai trẻ chuẩn bị trong gùi, hoặc ôm vào lòng đem chia cho những người dự lễ bỏ mả đang nhảy múa xung quanh ngôi nhà mồ.

Tượng người đánh trống (poh-gơr-pah), tượng này thể hiện diễn xướng tổng hợp về âm nhạc và dân vũ của người Gia-rai. Từ rất sớm, tộc người Gia rai đã có truyền thống sử dụng cồng, chiêng, trống làm nhạc cụ. Kèm theo âm nhạc là nhảy múa, vũ điệu thường được phối hợp nhịp nhàng với tiết tấu của bản nhạc, do vậy bức tượng người đánh trống không chỉ diễn tả một động tác đơn thuần là đánh trống, mà tư thế nhảy múa cũng được khắc họa sinh động. Trên thực tế, trong đêm bỏ ma, người đánh trống thường đi đầu, là người giữ vai trò khai nhạc, sau mới đến người đánh cồng chiêng, cả dàn nhạc vừa chơi nhạc vừa nhảy múa xung quanh nhà mồ. Người Gia-rai quan niệm người chết sẽ tiếp tục "sống" ở thế giới tổ tiên, do vậy bỏ mả không có nghĩa là buồn thương mà còn là sự mong ước bất tử của con người. Âm nhạc trong lễ bỏ mả, lúc sắp kết thúc tiết tấu bản nhạc trở nên rộn rã trầm hùng mất đi cảm giác bi lụy.

Ngoài tượng người, tượng chim thú cũng là một chủ đề mà người Gia-rai thường đẽo khi dựng nhà mồ. Chính sự xuất hiện của loại hình tượng này đã làm cho tượng có trong nhà mồ thêm phong phú và đa dạng. Theo người dân địa phương, tượng chim chủ (kơ-poh-pôm) được coi là vua của nhà mả, mỗi khi dân làng chuẩn bị lễ bỏ mả thì chim thường bay về đậu tại khu nghĩa địa và cất tiếng kêu tu tít, tu tít, người ta coi đây là một dấu hiệu tốt lành để tiến hành nghi lễ bỏ mả cho đúng mùa. Một số cụ già ở xã Iamnông kể lại theo truyền thuyết cổ làng của ma ở phía tây nơi Mặt Trời lặn (hrơilek) và vị trưởng làng là con chim ó, vị phó làng là con khỉ gió (kra-le) cai quản các ma. Do vậy ở những ngôi nhà mả người ta thường tạc tượng chim chủ này và chôn ở mặt phía tây của nhà mồ, mặt được đặt đầu người chết, và coi bức tượng chim kơ-poh-pôm như một vị thần bảo vệ lấy ngôi nhà mả, bảo vệ a-tâu.

Từ quan niệm bỏ mả là buổi lễ cuối cùng để chia tay với ma, sau lễ bỏ mả, ma sẽ có một cuộc sống mới tại "làng ma" của mình, nên không khí trong lễ hội được người Gia-rai tổ chức thật sự phấn khích. Tượng chó cõng khỉ (sâu koi krà) nằm trong nội dung diễn tả niềm vui đó. Khi hỏi chuyện những người thợ đẽo tượng thì họ cho biết, trên thực tế trong lễ hội bỏ mả không có sự xuất hiện của chó và khỉ, mặc dù đây là hai con vật quen thuộc đối với đồng bào Gia-rai. Nhưng để làm cho không khí sôi động, người thợ đẽo tượng sáng tạo ra bức tượng "chó cõng khỉ" ở tư thế rất ngộ nghĩnh, tinh nghịch như ngầm nói: lễ hội bỏ mả vui, có quá đông người đến dự, những con vật không thể chen được vào, vậy muốn xem chỉ còn cách cưỡi lên đầu nhau. Từ tác phẩm nghệ thuật này ta còn thấy được sức sáng tạo và tâm hồn phóng khoáng của người Tây Nguyên.

Trong những năm gần đây loại hình tượng nhà mồ có nhiều thay đổi, bên cạnh những lớp tượng được coi là cổ đã xuất hiện nhiều kiểu tượng phản ánh cuộc sống mới của người Gia-rai. Vào khu nhà mồ của một làng Gia-rai ta mới cảm nhận được hết điều thú vị này. Người ta có thể thấy tượng lính Mỹ, tượng cô đầm, học sinh đi học, người đá bóng... với nét tạc khắc tả thực khá tinh vi. Song, bên cạnh đó lớp tượng được coi là cũ về mặt phong cách, vẫn được bảo tồn. Ngôi nhà mồ của nhóm Gia-rai A ráp hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một điển hình cho phong cách tượng cổ này.

Một vài nhận xét ban đầu[sửa mã nguồn]

Thông qua những tượng mồ Gia-rai có thể đưa ra một số nhận xét ban đầu như sau:

  • Người Gia-rai khi đẽo tượng đã sử dụng kỹ thuật đẽo gọt thô sơ là những nhát bổ thô ráp mộc mạc, các nét vạch ngang, vạch chéo hình học sơ lược, với dụng cụ đơn giản là chiếc rìu và cây chà-gạc, kỹ năng tạc tượng chỉ dựa vào kinh nghiệm. Mùa làm tượng được tiến hành vào mùa khô trùng với dịp bỏ mả, người Gia -rai truyền nghề tạc tượng theo lối truyền tay, việc tiếp thu kinh nghiệm phụ thuộc vào khả năng của người học việc.
  • Nghệ thuật tượng mồ về cơ bản là sử dụng thủ pháp dùng mảng kết hợp với khối để miêu tả, không đi vào lối đẽo gọt các chi tiết thật tỷ mỉ chính xác, mà chủ yếu chỉ gợi mở cho nguời xem những suy nghĩ tiếp theo. Màu sắc dùng trang trí tượng được lấy trong tự nhiên với hai màu cơ bản là đen và đỏ. Từ nghệ thuật tượng mồ của người Gia-rai ta có thể tìm thấy được mối liên hệ với nghệ thuật nguyên thuỷ của một số dân tộc trong lịch sử. Nghệ thuật tượng mồ còn là sự phản ánh sinh động những hoạt động của người Gia-rai trong quá khứ và hiện tại.
  • Một trong những ý nghĩa chủ đạo của lớp tượng nhà mồ đó chính là tín ngưỡng phồn thực, giống như bất cứ cư dân nông nghiệp vùng Đông Nam Á nào, người Gia-rai luôn cầu mong được mùa. Tượng nam nữ giao hợp được người Gia-rai thể hiện một cách đặc tả, bỏ đi tính ước lệ cách điệu, chiếm một số lượng khá lớn trong nhà mồ là biểu hiện đậm nét nhất của tín ngưỡng này. Những bức tượng mồ chứa đựng các thông số về tập quán, những sinh hoạt trong đời sống, nhất là trong buổi lễ bỏ mả được khắc hoạ thật sinh động. Tượng mồ là một nét văn hoá độc đáo của người Gia-rai và một số dân tộc khác ở Tây Nguyên.
  • Về mặt nghệ thuật, người nghiên cứu có thể qua tượng mồ mà tìm hiểu nghệ thuật nguyên thuỷ của loài người. Tượng mồ phản ánh rõ nét trình độ thẩm mỹ của người Gia-rai. Hơn thế nữa, còn nói lên trình độ tư duy của dân tộc - không phải như nhà dân tộc học và xã hội học người Pháp Lêvi-Bruyn (?) cho rằng tư duy của người nguyên thuỷ là tư duy tiền lô-gic, qua tượng mồ ta thấy tư duy của người Gia-rai đã ở trình độ cao, mạch lạc, sống động. Tượng mồ nói lên thái độ của người Gia-rai trước cái chết, quan niệm của họ về cái sống và cái chết, về thế giới vĩnh hằng bên kia. Nó nói lên tình cảm sâu đậm, thương tiếc của họ với người thân trong cộng đồng gia đình, dòng họ đã khuất núi. Tượng mồ còn có một giá trị khác là phản ảnh cuộc sống đời thường của dân tộc. Đời thường có sự thay đổi nào, thì những nét mới được thể hiện kịp thời trong các hình tượng nghệ thuật khắc gỗ này. Vì vậy tượng mồ là những tư liệu vật thể chân thực để nghiên cứu lịch sử tộc người.

Giá trị văn hoá và giá trị lịch sử làm cho tượng mồ từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học thuộc các ngành xã hội và nhân văn. Nó là di sản văn hoá quý báu không chỉ riêng của Việt Nam, của Đông Nam Á mà còn là của nhân loại. Nó hứa hẹn nhiều khám phá mới về lịch sử tộc người và văn hoá tộc người trong thời gian tới.