Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tư Mã Luân”
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 52: | Dòng 52: | ||
Cuộc đời của ông vua thoán nghịch đã chấm dứt. |
Cuộc đời của ông vua thoán nghịch đã chấm dứt. |
||
==Tham khảo== |
|||
*Mọi người còn nhớ khi [[Tư Mã Chiêu]] làm Tấn vương truy phong [[Tư Mã Ý]], [[Tư Mã Sư]] làm Tuyên vương, Cảnh vương, sau đó [[Tấn Vũ Đế|Tư Mã Viêm]] làm Tấn Vũ Đế thăng Tư Mã Ý, Tư Mã Sư làm Tấn Tuyên Đế và Tấn Cảnh Đế vì vậy ở đây Tư Mã Luân ban đầu là Triệu vương, khi xưng đế sẽ thành Tấn Triệu Đế vậy [[Thụy hiệu]] của Tư Mã Luân là Tấn Triệu Đế. |
|||
==Chú thích== |
==Chú thích== |
Phiên bản lúc 05:11, ngày 18 tháng 5 năm 2013
Tấn Triệu Đế | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Trung Quốc | |||||||||||||
Vua nhà Tây Tấn | |||||||||||||
Tại vị | 2/301 – 5/301 | ||||||||||||
Đăng quang | 2/301 | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Tấn Huệ Đế | ||||||||||||
Kế nhiệm | Tấn Huệ Đế | ||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | 249 | ||||||||||||
Mất | 5/301 thành Kim Dung | ||||||||||||
| |||||||||||||
Hoàng tộc | Nhà Tây Tấn |
Tư Mã Luân (司馬倫; 249 - 5/301) làm vua 3 tháng (năm 301), trong đời chỉ có 1 niên hiệu là Kiến Thủy. Trước lúc làm vua, ông được phong là Triệu vương, sau là Triệu Đế [1] . Là người con thứ 9 của Tư Mã Ý (179-251) mặc dù kém Tư Mã Ý đến 70 tuổi, đáng tuổi chắt Tư Mã Ý ( hơn chắt Tư Mã Ý là Tấn Huệ Đế chỉ 10 tuổi), nhưng thuộc hàng ông chú của đương kim hoàng đế là Tấn Huệ Đế
Vốn Tấn Huệ Đế ở ngôi, là ông vua đần độn, để Giả Hoàng hậu (Giả Nam Phong) tha hồ làm bậy, nhũng nhiễu triều chính. Bà dùng kế phế Thái tử Tư Mã Duật đi. Sĩ Ỷ và Tư Mã Nhã muốn phục thù cho Thái tử Duật, bèn nhờ cậy Tư Mã Luân. Tư Mã Luân so với Tấn Huệ Đế là thuộc hàng ông, mà so với Tư Mã Duật là đến hàng cụ. Tư Mã Luân bèn rêu rao rằng sẽ đem quân về triều giúp Tư Mã Duật, Giả hậu sợ, giết Duật đi. Luân lấy cớ đó, tiến quân về triều, diệt các thế lực của Giả, rồi xông thẳng vào cung đòi giết Giả hậu.
Lên ngôi
Tư Mã Luân nắm quyền lớn trong triều. Sau đó, ông giành lấy ngai vàng, an trí Tấn Huệ Đế tại thành Kim Dung, lên ngôi Hoàng đế triều Tấn, tại vị từ ngày 3/2 - 30/5 năm 301. Thông thường trong sử sách và danh sách về những vị Hoàng đế nhà Tấn, vị vua này thường chẳng được ghi tên vào danh sách ấy, thứ 1 là vì thời đại ông ta cai trị quá ngắn ngủi, thứ 2 là vì ông ta chỉ là kẻ thoán nghịch lên ngôi.
Bị lật đổ
Vốn Tề Vương là Tư Mã Quýnh từng giúp Luân trong việc giành ngôi, vậy mà Luân ban thưởng cho ông ta quá bạc bẽo, nên ông ta sinh lòng oán hận, truyền hịch đến một loạt các vị vương chư hầu khác nổi dậy định lật đổ Tư Mã Luân. Tề Vương cùng với Hà Giang Vương (Tư Mã Ngung), Thành Đô Vương (Tư Mã Dĩnh), Thường Sơn Vương (Tư Mã Nghệ), Tân Dã Vương (Tư Mã Hâm) cùng nổi dậy đánh Tư Mã Luân.
Tháng 4/301, các vương hội nhau làm loạn, đánh về triều. Tư Mã Luân chống không nổi, thua, bị bắt sống. Tấn Huệ Đế được rước về triều. Còn Luân bị tống giam ở thành Kim Dung, sau đó bị bức tử.
Cuộc đời của ông vua thoán nghịch đã chấm dứt.
Chú thích
- ^ mọi người còn nhớ khi Tư Mã Chiêu làm Tấn vương truy phong Tư Mã Ý, Tư Mã Sư làm Tuyên vương, Cảnh vương, sau đó Tư Mã Viêm làm Tấn Vũ Đế thăng Tư Mã Ý, Tư Mã Sư làm Tấn Tuyên Đế và Tấn Cảnh Đế vì vậy ở đây Tư Mã Luân ban đầu là Triệu vương, khi xưng đế sẽ thành Tấn Triệu Đế vậy Thụy hiệu của Tư Mã Luân là Tấn Triệu Đế