Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hạm đội Liên hợp”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Khốttabít (thảo luận | đóng góp)
Khốttabít (thảo luận | đóng góp)
Dòng 16: Dòng 16:
**[[Trận Uy Hải Vệ]] (kết thúc ngày 12 tháng 2 năm 1895). Kỳ hạm là tuần dương hạm Matsushima.
**[[Trận Uy Hải Vệ]] (kết thúc ngày 12 tháng 2 năm 1895). Kỳ hạm là tuần dương hạm Matsushima.
*[[Chiến tranh Nga-Nhật]]
*[[Chiến tranh Nga-Nhật]]
**[[Hải chiến Hoàng Hải]] (ngày 8 tháng 10 năm 1094). Kỳ hạm là [[chiến hạm Mikasa]].
**[[Hải chiến Hoàng Hải]] (ngày 8 tháng 10 năm 1094). Kỳ hạm là [[thiết giáp hạm Mikasa]].
**[[Hải chiến Tsushima]] (ngày 27-28 tháng 5 năm 1905). Kỳ hạm là chiến hạm Mikasa.
**[[Hải chiến Tsushima]] (ngày 27-28 tháng 5 năm 1905). Kỳ hạm là chiến hạm Mikasa.
*[[Chiến tranh Thái Bình Dương]]
*[[Chiến tranh Thái Bình Dương]]
**[[Trận Midway]] (ngày 5-7 tháng 6 năm 1942). Kỳ hạm là [[chiến hạm Yamoto]].
**[[Trận Midway]] (ngày 5-7 tháng 6 năm 1942). Kỳ hạm là [[thiết giáp hạm Yamoto]].


==Danh sách các tư lệnh==
==Danh sách các tư lệnh==

Phiên bản lúc 16:55, ngày 24 tháng 10 năm 2009

Hạm đội Liên hợp (kanji cũ: 聯合艦隊, kanji mới: 連合艦隊, rōmaji: Rengōkantai, phiên âm Hán-Việt: Liên hợp hạm đội) là một hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đây là hạm đội không thường trực, được thành lập trên cơ sở ít nhất 2 hạm đội thường trực. Hải quân Nhật gọi tắt hạm đội này là GF (từ chữ Grand Fleet trong tiếng Anh) mặc dù 聯合艦隊 trong tiếng Anh lại là Combined Fleet.

Tổ chức

Hạm đội Liên hợp là nòng cốt của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Từ thời Minh Trị, lực lượng nòng cốt của hải quân Nhật là Hạm đội Thường trực (常備艦隊, Jōbikantai, Thường bị hạm đội) thành lập từ các thiết hạm mới và các tàu đang hoạt động. Đồng thời, một hạm đội gồm các tàu già cỗi, hoạt động ở tuyến hai tức là chỉ hoạt động gần bờ, gọi là Hạm đội Cảnh bị (警備艦隊, Keibi kantai, Cảnh bị hạm đội), Khi chiến tranh Nhật-Thanh bùng nổ, xuất hiện ý kiến cho rằng để Hạm đội Cảnh bị chẳng làm gì là phí phạm. Vì thế việc sáp nhập Hạm đội Thường trực và Hạm đội Cảnh bị được đặt ra. Tham mưu trưởng lúc đó là đại tá Yamamoto Gonbe đã đề xuất phương án đổi tên Hạm đội Cảnh bị thành Hạm đội Biển Tây (西海艦隊, Seikai kantai, Tây hải hạm đội), và sáp nhập hạm đội này với Hạm đội Thường trực thành Hạm đội Liên hợp.

Sáu ngày sau khi chiến tranh Nhật-Thanh bùng nổ, Hạm đội Liên hợp được thành lập. Sau chiến tranh này, Hạm đội bị giải tán và chỉ tái thành lập mỗi khi diễn tập và khi chiến tranh Nga-Nhật. Từ năm Taishō thứ mười hai (năm 1923), Hạm đội Liên hợp trở thành một hạm đội chính quy thường trực.

Bộ tư lệnh Hạm đội Liên hợp, với tư cách là bộ máy giúp việc cho tư lệnh, bao gồm tham mưu trưởng, phó tham mưu trưởng, sĩ quan tham mưu chủ nhiệm, sĩ quan tham mưu pháo binh, sĩ quan tham mưu ngư lôi, sĩ quan tham mưu không quân, sĩ quan tham mưu hải trình, sĩ quan tham mưu máy móc, sĩ quan tham mưu chiến đấu, sĩ quan tham mưu chính trị, chủ nhiệm đo đạc, chủ nhiệm quân y, chủ nhiệm tín hiệu, chủ nhiệm máy móc, chủ nhiệm khí tượng, các trợ lý, v.v...

Hải quân Nhật Bản, mà tiêu biểu là Hạm đội Liên hợp, suốt một thời gian dài đã không chỉ bao gồm các tàu chủ lực là các chiến hạm, mà còn có các tàu hỗ trợ như khu trục hạm, tàu vận tải, với một số rất đông liên hợp lại. Vì là lực lượng tinh hoa khi chiến đấu thực tế, nên Hạm đội Liên hợp là nơi tập trung nhiều nhân tài của hải quân gồm những người đã được tôi luyện, trưởng thành từ lực lượng cảnh bị trên đất liền và lực lượng phòng ngự trên biển. Chính vì sự thiên vị này mà các lực lượng hải quân khác thường rơi vào tình trạng thiếu nhân lực nghiêm trọng. Lực lượng cạnh tranh chính với Hạm đội Liên hợp là lực lượng hàng không mẫu hạm cơ động, được thành lập nhờ tư tưởng hạm đội quyết chiến với các chiến hạm làm trung tâm. Nhưng việc lực lượng này bị thất bị nặng nề trong Trận chiến biển Philippines đã làm cho tư tưởng hạm đội quyết chiến sụp đổ. Vì thế, tư tưởng lấy Hạm đội Liên hợp làm trung tâm trở thành tư tưởng thống soái trong hải quân Nhật. Chính vì có tư tưởng như vậy, nên các lực lượng phòng ngự trên biển và lực lượng săn tàu ngầm mãi sau này mới đến sau trận chiến vịnh Leyte mới được thành lập.

Lịch sử

Sau đây là danh sách các trận đánh hải quân của Hạm đội Liên hợp, chỉ xét các trận có sự tham gia của kỳ hạm.

Danh sách các tư lệnh

Sau đây là danh sách các tư lệnh của Hạm đội Liên Hợp xếp theo ngày nhậm chức.

  1. Trung tướng Itō Kesuyuki - nhậm chức ngày 19/7/1894    
  2. Trung tướng Arichi Shinanojō - 11/5/1895     
  3. Trung tướng Tōgō Heihachirō - 28/12/1903  
  4. Đại tướng Tōgō Heihachirō - 14/6/1905
  5. Trung tướng Ijūin Gorō - 8/10/1808
  6. Trung tướng Yoshimatsu Shiketarō -1/11/1915
  7. Trung tướng Yoshimatsu Shiketarō - 1/9/1916
  8. Đại tướng Yoshimatsu Shiketarō - 1/10/1917
  9. Đại tướng Yamashita Gentarō - 1/9/1918
  10. Đại tướng Yamashita Gentarō - 1/6/1919
  11. Đại tướng Yamaya Tanin - 1/5/1920
  12. Đại tướng Tochinai Sojirō - 24/8/1920
  13. Đại tướng Tochinai Sojirō - 1/5/1921
  14. Trung tướng Takeshita Isamu -1/12/1922
  15. Đại tướng Suzuki Kantarō - 27/1/1924
  16. Đại tướng Okada Keisuke - 1/12/1924
  17. Trung tướng Katō Hiroharu - 10/12/1926
  18. Đại tướng Taniguchi Naomi - 10/12/1928
  19. Trung tướng Yamamoto Eisuke - 11/11/1929
  20. Trung tướng Kobayashi Seizō - 1/12/1931
  21. Trung tướng Suetsugu Nobumasa - 15/11/1933
  22. Trung tướng Takahashi Sankichi - 15/11/1934
  23. Trung tướng Yōnai Mitsumasa - 1/12/1936
  24. Đại tướng Nagano Osami - 2/2/1937
  25. Trung tướng Yoshida Zengo - 1/12/1937
  26. Trung tướng Yamamoto Isoroku - 30/8/1939
  27. Đại tướng Yamamoto Isoroku - 11/8/1941
  28. Đại tướng Kochi Mineichi - 21/4/1944    
  29. Đại tướng Toyoda Soemu - 3/5/1944 
  30. Đại tướng Toyoda Soemu - 1/5/1945  
  31. Trung tướng Ozawa Jisaburō - 29/5/1945

Danh sách kỳ hạm

Sau đây là danh sách các kỳ hạm của Hạm đội Liên hợp xếp theo thứ tự cũ trước mới sau.

Thiết giáp hạm Yamato