Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đinh Trung Thành”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “'''Đinh Trung Thành''' (Lương Văn Nơi, 10/5/1932) là tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Ngu…”
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 22:47, ngày 21 tháng 12 năm 2017

Đinh Trung Thành (Lương Văn Nơi, 10/5/1932) là tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Nguyên Giám đốc Trường Trung cấp Quân sự Quân khu 9, Tư lệnh Sư đoàn 4, Tham mưu phó Mặt trận 979, Hiệu trưởng Trường Quân sự Quân khu 9, Trưởng đoàn chuyên gia K5B, Phó Tư lệnh Quân khu 9(1992-1997).

Thân thế và sự nghiệp.

Ông sinh ở làng Mỹ An Hưng, quận Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).

Năm 1946, ông là Đội trưởng Đội Thiếu nhi Tiền phong xã Mỹ An Hưng.

Năm 1947, ông vào bộ đội ở Đại đội 1030 thuộc Trung đoàn 115. Từ chiến sĩ, đến Tổ trưởng tam tam chế, Tiểu đội phó, Tiểu đội trưởng - Đại đội 949, ông chiến đấu liên tục, đến khi tập kết ra Bắc được giao nhiệm vụ Trung đội phó - Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 658.

Năm 1956, ông về Tiểu đoàn huấn luyện số 15 - Đại đoàn 316.

Đầu năm 1957, ông là giáo viên dạy chiến thuật của Tiểu đoàn huấn luyện 15.

Cuối năm 1958, ông học ở Trường Sĩ quan Lục quân của Bộ Quốc phòng, vừa là học viên vừa kiêm Trung đội trưởng khung.

Năm 1959 – 1960, ông kiêm Đại đội phó Đại đội 3 của Trường.

Tháng 3/1960, vừa học xong, ông về Nam, được bổ nhiệm Trung uý/Chính trị viên Đại đội.

Cuối năm 1960, ông được bổ nhiệm Trợ lý tác chiến của Quân khu Tây Nam Bộ (T3).

Năm 1961, ông làm Trưởng khoa giáo viên chiến thuật Trường Trung cấp Quân khu.

Tháng 3/1965, ông giữ chức vụ Tiểu đoàn phó/Tham mưu trưởng Tiểu đoàn Tây Đô lừng danh của Cần Thơ.

Đầu năm 1967, ông là Tiểu đoàn phó/Tham mưu trưởng Tiểu đoàn Độc lập 308 của Quân khu.

Cuộc tổng tấn công xuân Mậu Thân 1968, ông là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 312 của Quân khu có nhiệm vụ đánh vào thị xã Vĩnh Long.

Năm 1969, ông là Trung đoàn phó rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3 của Quân khu, từng đánh những trận nổi tiếng ở chi khu Càng Long, yếu khu Thầy Phó v.v.. 

Năm 1972, ông nhận nhiệm vụ Giám đốc Trường Trung cấp Quân sự của Quân khu.

Cuối năm 1972, ông được trở ra Bắc học 1 năm ở Học viện Quân sự cấp cao của Bộ Quốc Phòng.

Sau ngày miền Nam giải phóng, ông là Trưởng phòng Tổng kết chiến tranh của Quân khu. Khi chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra, ông là Phó Tư lệnh, rồi Tư lệnh Sư đoàn 4 của Quân khu IX có nhiệm vụ đánh bọn Pôn-pốt xâm lược và giúp nước bạn Campuchia.

Đến năm 1982, ông được lệnh trở ra Bắc học ở Học viện Chính trị thuộc Bộ Quốc Phòng. Trở về, ông làm Tham mưu phó Mặt trận 979.

Năm 1983, ông về làm Hiệu trưởng Trường Quân sự Quân khu.

Năm 1988, ông được phong quân hàm Thiếu tướng và trở qua Campuchia làm Trưởng đoàn chuyên gia K5 B.

Năm 1992, ông về làm Phó Tư lệnh Quân khu IX; đến năm 1997, nghỉ hưu.

Thiếu tướng (1988),