Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Rơ Ô Cheo”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “'''Rơ Ô Cheo''' (sinh năm 1952) là một tướng lĩnh trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên là Phó Tư lệnh…”
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 14:43, ngày 24 tháng 8 năm 2018

Rơ Ô Cheo (sinh năm 1952) là một tướng lĩnh trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên là Phó Tư lệnh Quân khu 5 (2007-2013)

Thân thế và binh nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh năm 1952 tại địa phận H2, tỉnh Đak Lak (nay là xã Ia Rsai, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai), cậu bé Rơ Ô Cheo sớm đã nung nấu quyết tâm đuổi giặc giữ làng.

Trực tiếp tham gia chiến đấu từ năm 1967 cho đến ngày giải phóng không dưới 100 trận, ông bảo rằng ông may mắn hơn đồng đội khi chỉ bị thương duy nhất một lần trong trận chống giặc càn quét năm 1971. “Nhớ nhất là trận đánh tại buôn Pông (xã Phú Cần ngày nay-N.V) vào tháng 3-1970. Khi ấy, tôi cùng anh em tổ chức đánh ập vào ban đêm lúc giặc đang ngủ say, thiếu cảnh giác, diệt gọn 30 tên và tịch thu toàn bộ vũ khí, thiết bị quân sự của chúng. Riêng ông một mình giết được 10 tên”

Tháng 3-1975, ông thuộc Đại đội 303 của Đak Lak.

Trong suốt những năm từ 1976-1979, ông cùng đơn vị mình (bấy giờ là Tiểu đoàn 303-Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đak Lak) lại lao vào cuộc chiến chống lại quân phản động từ Ayun Pa đến tận Buôn Hồ, Ea Súp.

tháng 5-1980, ông mới bắt đầu đi học văn hóa tại Trường Văn hóa Quân khu 5 (Quy Nhơn) và tiếp đó là lớp tiểu đoàn tại Trường Quân sự Quân khu 5 (Đà Nẵng).

Năm 1983, ông về công tác ở Tiểu đoàn 6-Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Gia Lai-Kon Tum với chức vụ Tiểu đoàn trưởng, cấp bậc Đại úy.

Tháng 10-1986,ông là Phó chỉ huy-Tham mưu trưởng Huyện đội Krông Pa, tỉnh Gia Lai.

Tháng 5-1989, ông là Chỉ huy trưởng Huyện đội Krông Pa, tỉnh Gia Lai.

Tháng 7-1997, ông là Phó chỉ huy trưởng BCH QS tỉnh Gia lai.

Tháng 4-2006, ông là Chỉ huy trưởng BCH QS tỉnh Gia lai.

Tháng 2-2007 là Phó Tư lệnh Quân khu 5, hàm Thiếu tướng.

Tháng 8-2013 ông nghĩ hưu.

1975( Thiếu úy) 1977(Trung úy) 1980( Thượng úy) 1983(Đại úy) 1986( Thiếu tá) 1990( Trung tá) 1994( Thượng tá) 1998( Đại tá) 2007( Thiếu tướng)