Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nymph”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
[[File:Rape Hylas Massimo.jpg|thumb|right|300px|Một bức họa vào thế kỷ thứ 4 vẽ [[Hylas]] và các tiên nữ trang trí cho Đại Giáo đường [[Junius Bassus]]]]
[[File:Rape Hylas Massimo.jpg|thumb|right|300px|Một bức họa vào thế kỷ thứ 4 vẽ [[Hylas]] và các thần nữ trang trí cho Đại Giáo đường [[Junius Bassus]]]]
'''Tiên nữ''' trong [[Thần thoại Hy Lạp]] là một nữ thần nhỏ thường gắn liền với một địa danh cụ thể hay vùng đất nào đó. Khác với các vị thần, tiên nữ thường được xem như những sinh vật siêu nhiên sống và mang lại sinh khí cho những hiện tượng tự nhiên và thường được khắc họa với hình ảnh của những thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp và quyến rũ, yêu thích ca hát nhảy múa. Chính sự tự do luyến ái của họ đã làm họ khác biệt với những người vợ, những cô con gái vốn bị ràng buộc theo khuôn phép chặt chẽ của các ''[[thành bang]]''. Các tiên nữ sống trên các vùng núi cao hay những [[Khu rừng nhỏ (tự nhiên)|khu rừng nhỏ]], trong các con sông và dòng suối. Cũng có khi họ sống trong cây cối hay các thung lũng và những [[hang động]]. Dù các tiên nữ chẳng bao giờ chết vì tuổi già hay bệnh tật, thậm chí nếu giao hợp với một vị thần, họ còn có thể sinh ra những đứa con bất tử nhưng chính bản thân họ lại không cần bất tử. Họ có thể chết bằng rất nhiều cách và lý do khác nhau.
'''Thần nữ''' trong [[Thần thoại Hy Lạp]] là một nữ thần nhỏ thường gắn liền với một địa danh cụ thể hay vùng đất nào đó. Khác với các vị thần, thần nữ thường được xem như những sinh vật siêu nhiên sống và mang lại sinh khí cho những hiện tượng tự nhiên và thường được khắc họa với hình ảnh của những thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp và quyến rũ, yêu thích ca hát nhảy múa. Chính sự tự do luyến ái của họ đã làm họ khác biệt với những người vợ, những cô con gái vốn bị ràng buộc theo khuôn phép chặt chẽ của các ''[[thành bang]]''. Các thần nữ sống trên các vùng núi cao hay những [[Khu rừng nhỏ (tự nhiên)|khu rừng nhỏ]], trong các con sông và dòng suối. Cũng có khi họ sống trong cây cối hay các thung lũng và những [[hang động]]. Dù các thần nữ chẳng bao giờ chết vì tuổi già hay bệnh tật, thậm chí nếu giao hợp với một vị thần, họ còn có thể sinh ra những đứa con bất tử nhưng chính bản thân họ lại không cần bất tử. Họ có thể chết bằng rất nhiều cách và lý do khác nhau.


Một số tiên nữ khác luôn ở dưới hình thức của những cô gái trẻ lại là [[tùy tùng]] của các vị thần như là [[Dionysus]], [[Hermes]], [[Pan (thần thoại)|Pan]] hay nữ thần săn bắn [[Artemis]].<ref>Xem thêm Jennifer Larson, [http://www.jstor.org/stable/3298110 "Handmaidens of Artemis?"], ''The Classical Journal'' '''92'''.3 (February 1997), trang 249-257.</ref> Các tiên nữ thường là mục tiêu theo đuổi của các [[thần rừng]]. Họ cũng thường gắn liền với các vị thần quyền phép hơn như thần săn bắn [[Artemis]], thần tiên tri [[Apollo (thần)|Apollo]], thần hội hè và vị thần [[ruợu vang]] [[Dionysus]], và những vị thần khác như Pan và Hermes.
Một số thần nữ khác luôn ở dưới hình thức của những cô gái trẻ lại là [[tùy tùng]] của các vị thần như là [[Dionysus]], [[Hermes]], [[thần đồng quê (thần thoại)|thần đồng quê]] hay nữ thần săn bắn [[Artemis]].<ref>Xem thêm Jennifer Larson, [http://www.jstor.org/stable/3298110 "Handmaidens of Artemis?"], ''The Classical Journal'' '''92'''.3 (February 1997), trang 249-257.</ref> Các thần nữ thường là mục tiêu theo đuổi của các [[thần đồng quê]]. Họ cũng thường gắn liền với các vị thần quyền phép hơn như thần săn bắn [[Artemis]], thần tiên tri [[Apollo (thần)|Apollo]], thần hội hè và vị thần [[ruợu vang]] [[Dionysus]], và những vị thần khác như thần đồng quê và Hermes.


Những cuộc hôn nhân mang tính biểu tượng giữa một tiên nữ và một vị trưởng tộc, thường là [[eponym]] của một dân tộc, là một chủ đề được nhắc lại rất nhiều lần trong những truyền thuyết Hy Lạp. Sự kết hợp này thường mang đến quyền lực cho các vị vua và huyết thống của ông.
Những cuộc hôn nhân mang tính biểu tượng giữa một thần nữ và một vị trưởng tộc, thường là [[eponym]] của một dân tộc, là một chủ đề được nhắc lại rất nhiều lần trong những truyền thuyết Hy Lạp. Sự kết hợp này thường mang đến quyền lực cho các vị vua và huyết thống của ông.


==Từ nguyên==
==Từ nguyên==
Tiên nữ là hiện thân của những hoạt động sáng tạo và nuôi dưỡng của tự nhiên, thường gắn với những dòng suối mang đến sự sống như [[Walter Burkert]] (Burkert 1985:III.3.3) đã viết "Ý tưởng những dòng sông là những vị thần và các con suối sinh ra những tiên nữ không chỉ có nguồn gốc sâu xa từ các bài thơ mà thật ra chính là từ tín ngưỡng và nghi lễ; việc thờ phụng những nữ thần này bị giới hạn chỉ vì người ta không thể nào phân biệt rõ ràng được họ với một vị thần nào đó ở địa phương".
Thần nữ là hiện thân của những hoạt động sáng tạo và nuôi dưỡng của tự nhiên, thường gắn với những dòng suối mang đến sự sống như [[Walter Burkert]] (Burkert 1985:III.3.3) đã viết "Ý tưởng những dòng sông là những vị thần và các con suối sinh ra những thần nữ không chỉ có nguồn gốc sâu xa từ các bài thơ mà thật ra chính là từ tín ngưỡng và nghi lễ; việc thờ phụng những nữ thần này bị giới hạn chỉ vì người ta không thể nào phân biệt rõ ràng được họ với một vị thần nào đó ở địa phương".


Từ νύμφη trong [[tiếng Hy Lạp|Hy Lạp]] có nghĩa là "cô dâu" hay "che mạng" do đó gắn liền với một người phụ nữ trẻ có thể tiến tới hôn nhân. Ngòai ra cũng có một liên hệ khác (tương tự với từ ''nubere'' trong tiếng [[Latin]] và ''Knospe'' trong [[thuộc về Đức|tiếng Đức]]) với ý tưởng "nhú lên" (theo [[Hesychius of Alexandria|Hesychius]], một trong những ý nghĩa của νύμφη là "nụ hồng".
Từ νύμφη trong [[tiếng Hy Lạp|Hy Lạp]] có nghĩa là "cô dâu" hay "che mạng" do đó gắn liền với một người phụ nữ trẻ có thể tiến tới hôn nhân. Ngòai ra cũng có một liên hệ khác (tương tự với từ ''nubere'' trong tiếng [[Latin]] và ''Knospe'' trong [[thuộc về Đức|tiếng Đức]]) với ý tưởng "nhú lên" (theo [[Hesychius of Alexandria|Hesychius]], một trong những ý nghĩa của νύμφη là "nụ hồng".
Dòng 13: Dòng 13:
==Trong văn hóa dân gian của Hy lạp hiện đại==
==Trong văn hóa dân gian của Hy lạp hiện đại==


[[File:Sleepingnymph.jpg|thumb|left|''Anh chăn cừu trông Tiên nữ ngủ'' by [[Angelica Kauffman]], khỏang năm 1780, (V&A Museum no. 23-1886)]]
[[File:Sleepingnymph.jpg|thumb|left|''Anh chăn cừu trông thần nữ ngủ'' by [[Angelica Kauffman]], khỏang năm 1780, (V&A Museum no. 23-1886)]]


Tín ngưỡng của người Hy lạp cổ đại đối với các tiên nữ vẫn tồn tại trong rất nhiều khu vực đến tận những năm đầu của thế kỷ 20 dưới hình thức của "[[Nereids]]",tiên nữ của các vùng biển,con gái thứ 50 của Poseidon và Doris. Vào thời điểm đó, John Cuthbert Lawson đã viết: "...khắp hang cùng ngõ hẻm của Hy lạp, đâu đâu cũng tồn tại những câu chuyện mẹ kể con nghe nhắc nhở phải cẩn thận với những tiên nữ biển bởi chúng hay trộm cắp và lòng dạ rất ác độc. Ngược lại, đàn ông lại xưng tụng vẻ đẹp, niềm đam mê cũng như truyền miệng những câu chuyện về những ỵêu giận thất thường của họ. Thậm chí đã vượt quá khuôn khổ của tín ngưỡng, tôi đã từng gặp rất nhiều người khẳng định họ đã gặp nàng tiên nữ của biển cả này (hay ít nhất là họ cũng quả qyết tin thế) mà điều kỳ lạ là tất cả các nhân chứng này như có sự thỏa thuận trước khi miêu tả lại hình dáng cũng như trang phục của cô ta". <ref>{{cite book |last=Lawson |first=John Cuthbert |title=Modern Greek Folklore and Ancient Greek Religion |edition=1st |year=1910 |publisher=[[Cambridge University Press]] |location=Cambridge |pages=131}}</ref>
Tín ngưỡng của người Hy lạp cổ đại đối với các thần nữ vẫn tồn tại trong rất nhiều khu vực đến tận những năm đầu của thế kỷ 20 dưới hình thức của "[[Nereids]]",thần của các vùng biển,con gái thứ 50 của Poseidon và Doris. Vào thời điểm đó, John Cuthbert Lawson đã viết: "...khắp hang cùng ngõ hẻm của Hy lạp, đâu đâu cũng tồn tại những câu chuyện mẹ kể con nghe nhắc nhở phải cẩn thận với những nữ thần biển bởi chúng hay trộm cắp và lòng dạ rất ác độc. Ngược lại, đàn ông lại xưng tụng vẻ đẹp, niềm đam mê cũng như truyền miệng những câu chuyện về những ỵêu giận thất thường của họ. Thậm chí đã vượt quá khuôn khổ của tín ngưỡng, tôi đã từng gặp rất nhiều người khẳng định họ đã gặp nàng thần nữ của biển cả này (hay ít nhất là họ cũng quả qyết tin thế) mà điều kỳ lạ là tất cả các nhân chứng này như có sự thỏa thuận trước khi miêu tả lại hình dáng cũng như trang phục của cô ta". <ref>{{cite book |last=Lawson |first=John Cuthbert |title=Modern Greek Folklore and Ancient Greek Religion |edition=1st |year=1910 |publisher=[[Cambridge University Press]] |location=Cambridge |pages=131}}</ref>


Các tiên nữ thường sinh sống ở những người hẻo lánh, cách xa con người nhưng vẫn hay bị bắt gặp bởi những khách độc hành, nghe văng vẳng tiếng hát tiếng đàn của họ rồi lần theo đó để thấy họ đang nhảy múa, ca hát hay dầm mình trong những dòng nước mát giữa trưa nóng bức hay trong đêm thanh vắng. Tiên nữ cũng hay xuất hiện trong các cơn gió lốc. Tuy nhiên, những cuộc gặp gỡ như vậy thường là rất nguy hiểm thường làm cho những người không may mắn bị câm, mê đắm các tiên nữ một cách mù quáng, có thể là điên khùng hay thậm chí là cái chết. Khi gia đình nghĩ rằng đứa con mình gặp phải Nereid, họ thường cầu xin thánh Saint Artemidos
Các thần nữ thường sinh sống ở những người hẻo lánh, cách xa con người nhưng vẫn hay bị bắt gặp bởi những khách độc hành, vẳng nghe tiếng hát tiếng đàn của họ rồi lần theo đó để thấy họ đang nhảy múa, ca hát hay dầm mình trong những dòng nước mát giữa trưa nóng bức hay trong đêm thanh vắng. Thần nữ cũng hay xuất hiện trong các cơn gió lốc; tuy nhiên, những cuộc gặp gỡ như vậy thường là rất nguy hiểm làm cho những người không may mắn bị câm, mê đắm các thần nữ một cách mù quáng, có thể là điên khùng hay thậm chí là cái chết. Khi gia đình nghĩ rằng đứa con mình gặp phải Nereid, họ thường cầu xin thánh Saint Artemidos


==Ý nghĩa dục tính hiện đại ==
==Ý nghĩa dục tính hiện đại ==


[[File:SophieAndersonTheHeadOfANymph.jpg|right|thumb|''Đầu tiên nữ'' của [[Sophie Anderson]]]]
[[File:SophieAndersonTheHeadOfANymph.jpg|right|thumb|''Đầu thần nữ'' của [[Sophie Anderson]]]]


Chính vì hình ảnh của các tiên nữ trong truyền thuyết luôn là những người tự do luyến ái với cả 2 giới tùy theo sở thích của mình và hòan tòan vượt ra khỏi khả năng kiểm soát của người đàn ông, thuật ngữ này thường được gán cho những người đàn bà có hành vi tương tự. (Chẳng hạn như, tựa đề của tác phẩm trinh thám [[Perry Mason]] "Vụ án Negligent Nymph" của [[Erle Stanley Gardner]] đã bắt nguồn từ chính ý nghĩa này.)
Chính vì hình ảnh của các thần nữ trong truyền thuyết luôn là những người tự do luyến ái với cả 2 giới tùy theo sở thích của mình và hòan tòan vượt ra khỏi khả năng kiểm soát của người đàn ông, thuật ngữ này thường được gán cho những người đàn bà có hành vi tương tự. (Chẳng hạn như, tựa đề của tác phẩm trinh thám [[Perry Mason]] "Vụ án Negligent Nymph" của [[Erle Stanley Gardner]] đã bắt nguồn từ chính ý nghĩa này.)


Thuật ngữ ''[[cuồng dâm]]'' đã được [[tâm lý học]] dùng để chỉ "mong muốn có được những [[hành vi tính dục của con người]] ở mức độ cần được xem xét lâm sàng cụ thể" và ''người cuồng dâm'' là những người mắc phải hội chứng này. Tuy nhiên, do thuật ngữ này thường được hiểu là người đàn bà cuồng dâm, những nhà chuyên môn ngày nay thích dùng thuật ngữ ''[[hypersexuality]]'' thay vì [[nymphomania]] để chỉ hội chứng này ở cả nam lẫn nữ.
Thuật ngữ ''[[cuồng dâm]]'' đã được [[tâm lý học]] dùng để chỉ "mong muốn có được những [[hành vi tính dục của con người]] ở mức độ cần được xem xét lâm sàng cụ thể" và ''người cuồng dâm'' là những người mắc phải hội chứng này. Tuy nhiên, do thuật ngữ này thường được hiểu là người đàn bà cuồng dâm, những nhà chuyên môn ngày nay thích dùng thuật ngữ ''[[hypersexuality]]'' thay vì [[nymphomania]] để chỉ hội chứng này ở cả nam lẫn nữ.
Dòng 29: Dòng 29:
Từ ''[[nymphet]]'' được dùng để chỉ một cô gái phát triển sinh lý sớm và đã trở thành nổi tiếng với tác phẩm ''[[Lolita]]'' của [[Vladimir Nabokov]]. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là [[Humbert Humbert]] đã dùng thuật ngữ này rất nhiều lần để chỉ Lolita.
Từ ''[[nymphet]]'' được dùng để chỉ một cô gái phát triển sinh lý sớm và đã trở thành nổi tiếng với tác phẩm ''[[Lolita]]'' của [[Vladimir Nabokov]]. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là [[Humbert Humbert]] đã dùng thuật ngữ này rất nhiều lần để chỉ Lolita.


Truyền thuyết kể rằng các tiên nữ nếu kết đôi với thần biển Poseidon sẽ sinh ra một sinh vật huyền thọai là cyclops.<ref> http://ancienthistory.about.com/od/godsandgoddesses/a/Nymphs.htm </ref>
Truyền thuyết kể rằng các thần nữ nếu kết đôi với thần biển Poseidon sẽ sinh ra một sinh vật huyền thọai là cyclops.<ref> http://ancienthistory.about.com/od/godsandgoddesses/a/Nymphs.htm </ref>


==Phân loại==
==Phân loại==


Theo [[H.J. Rose]], tất cả các tên gọi của những nhóm tiên nữ khác nhau đều là tính từ số nhiều giống cái đi với danh từ ''nymphai'' và không có một sự phân lọai nào có thể đáp ứng tất cả các nguyên tắc và yêu cầu. Do đó, các nhóm tiên nữ thường hay bị trùng nhau và càng gây khó khăn hơn cho một bảng phân loại chính xác. Rose cho rằng [[dryad]] và [[hamadryad]] là các tiên cây nói chung, ''[[meliai]]'' là tiên cây tần bì và [[naiad]] là các tiên dưới nước. <ref>{{cite book |last=Rose |first=Herbert Jennings |authorlink=H.J. Rose |title=A Handbook of Greek Mythology |edition=1st |year=1959 |publisher=E.P. Dutton & Co. |location=New York |language= |isbn=0-525-47041-7 |pages=173}}</ref>
Theo [[H.J. Rose]], tất cả các tên gọi của những nhóm thần nữ khác nhau đều là tính từ số nhiều giống cái đi với danh từ ''nymphai'' và không có một sự phân lọai nào có thể đáp ứng tất cả các nguyên tắc và yêu cầu. Do đó, các nhóm thần nữ thường hay bị trùng nhau và càng gây khó khăn hơn cho một bảng phân loại chính xác. Rose cho rằng [[dryad]] và [[hamadryad]] là các tiên cây nói chung, ''[[meliai]]'' là tiên cây tần bì và [[naiad]] là các tiên dưới nước. <ref>{{cite book |last=Rose |first=Herbert Jennings |authorlink=H.J. Rose |title=A Handbook of Greek Mythology |edition=1st |year=1959 |publisher=E.P. Dutton & Co. |location=New York |language= |isbn=0-525-47041-7 |pages=173}}</ref>




==Tham khảo==
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
{{tham khảo}}
{{Thần thoại Hy Lạp (tiên nữ)}}
{{Thần thoại Hy Lạp (thần nữ)}}
[[Thể loại:Thần thoại Hy Lạp]]
[[Thể loại:Thần thoại Hy Lạp]]



Phiên bản lúc 04:25, ngày 18 tháng 8 năm 2011

Một bức họa vào thế kỷ thứ 4 vẽ Hylas và các thần nữ trang trí cho Đại Giáo đường Junius Bassus

Thần nữ trong Thần thoại Hy Lạp là một nữ thần nhỏ thường gắn liền với một địa danh cụ thể hay vùng đất nào đó. Khác với các vị thần, thần nữ thường được xem như những sinh vật siêu nhiên sống và mang lại sinh khí cho những hiện tượng tự nhiên và thường được khắc họa với hình ảnh của những thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp và quyến rũ, yêu thích ca hát nhảy múa. Chính sự tự do luyến ái của họ đã làm họ khác biệt với những người vợ, những cô con gái vốn bị ràng buộc theo khuôn phép chặt chẽ của các thành bang. Các thần nữ sống trên các vùng núi cao hay những khu rừng nhỏ, trong các con sông và dòng suối. Cũng có khi họ sống trong cây cối hay các thung lũng và những hang động. Dù các thần nữ chẳng bao giờ chết vì tuổi già hay bệnh tật, thậm chí nếu giao hợp với một vị thần, họ còn có thể sinh ra những đứa con bất tử nhưng chính bản thân họ lại không cần bất tử. Họ có thể chết bằng rất nhiều cách và lý do khác nhau.

Một số thần nữ khác luôn ở dưới hình thức của những cô gái trẻ lại là tùy tùng của các vị thần như là Dionysus, Hermes, thần đồng quê hay nữ thần săn bắn Artemis.[1] Các thần nữ thường là mục tiêu theo đuổi của các thần đồng quê. Họ cũng thường gắn liền với các vị thần quyền phép hơn như thần săn bắn Artemis, thần tiên tri Apollo, thần hội hè và vị thần ruợu vang Dionysus, và những vị thần khác như thần đồng quê và Hermes.

Những cuộc hôn nhân mang tính biểu tượng giữa một thần nữ và một vị trưởng tộc, thường là eponym của một dân tộc, là một chủ đề được nhắc lại rất nhiều lần trong những truyền thuyết Hy Lạp. Sự kết hợp này thường mang đến quyền lực cho các vị vua và huyết thống của ông.

Từ nguyên

Thần nữ là hiện thân của những hoạt động sáng tạo và nuôi dưỡng của tự nhiên, thường gắn với những dòng suối mang đến sự sống như Walter Burkert (Burkert 1985:III.3.3) đã viết "Ý tưởng những dòng sông là những vị thần và các con suối sinh ra những thần nữ không chỉ có nguồn gốc sâu xa từ các bài thơ mà thật ra chính là từ tín ngưỡng và nghi lễ; việc thờ phụng những nữ thần này bị giới hạn chỉ vì người ta không thể nào phân biệt rõ ràng được họ với một vị thần nào đó ở địa phương".

Từ νύμφη trong Hy Lạp có nghĩa là "cô dâu" hay "che mạng" do đó gắn liền với một người phụ nữ trẻ có thể tiến tới hôn nhân. Ngòai ra cũng có một liên hệ khác (tương tự với từ nubere trong tiếng LatinKnospe trong tiếng Đức) với ý tưởng "nhú lên" (theo Hesychius, một trong những ý nghĩa của νύμφη là "nụ hồng".

Trong văn hóa dân gian của Hy lạp hiện đại

Anh chăn cừu trông thần nữ ngủ by Angelica Kauffman, khỏang năm 1780, (V&A Museum no. 23-1886)

Tín ngưỡng của người Hy lạp cổ đại đối với các thần nữ vẫn tồn tại trong rất nhiều khu vực đến tận những năm đầu của thế kỷ 20 dưới hình thức của "Nereids",thần của các vùng biển,con gái thứ 50 của Poseidon và Doris. Vào thời điểm đó, John Cuthbert Lawson đã viết: "...khắp hang cùng ngõ hẻm của Hy lạp, đâu đâu cũng tồn tại những câu chuyện mẹ kể con nghe nhắc nhở phải cẩn thận với những nữ thần biển bởi chúng hay trộm cắp và lòng dạ rất ác độc. Ngược lại, đàn ông lại xưng tụng vẻ đẹp, niềm đam mê cũng như truyền miệng những câu chuyện về những ỵêu giận thất thường của họ. Thậm chí đã vượt quá khuôn khổ của tín ngưỡng, tôi đã từng gặp rất nhiều người khẳng định họ đã gặp nàng thần nữ của biển cả này (hay ít nhất là họ cũng quả qyết tin thế) mà điều kỳ lạ là tất cả các nhân chứng này như có sự thỏa thuận trước khi miêu tả lại hình dáng cũng như trang phục của cô ta". [2]

Các thần nữ thường sinh sống ở những người hẻo lánh, cách xa con người nhưng vẫn hay bị bắt gặp bởi những khách độc hành, vẳng nghe tiếng hát tiếng đàn của họ rồi lần theo đó để thấy họ đang nhảy múa, ca hát hay dầm mình trong những dòng nước mát giữa trưa nóng bức hay trong đêm thanh vắng. Thần nữ cũng hay xuất hiện trong các cơn gió lốc; tuy nhiên, những cuộc gặp gỡ như vậy thường là rất nguy hiểm làm cho những người không may mắn bị câm, mê đắm các thần nữ một cách mù quáng, có thể là điên khùng hay thậm chí là cái chết. Khi gia đình nghĩ rằng đứa con mình gặp phải Nereid, họ thường cầu xin thánh Saint Artemidos

Ý nghĩa dục tính hiện đại

Đầu thần nữ của Sophie Anderson

Chính vì hình ảnh của các thần nữ trong truyền thuyết luôn là những người tự do luyến ái với cả 2 giới tùy theo sở thích của mình và hòan tòan vượt ra khỏi khả năng kiểm soát của người đàn ông, thuật ngữ này thường được gán cho những người đàn bà có hành vi tương tự. (Chẳng hạn như, tựa đề của tác phẩm trinh thám Perry Mason "Vụ án Negligent Nymph" của Erle Stanley Gardner đã bắt nguồn từ chính ý nghĩa này.)

Thuật ngữ cuồng dâm đã được tâm lý học dùng để chỉ "mong muốn có được những hành vi tính dục của con người ở mức độ cần được xem xét lâm sàng cụ thể" và người cuồng dâm là những người mắc phải hội chứng này. Tuy nhiên, do thuật ngữ này thường được hiểu là người đàn bà cuồng dâm, những nhà chuyên môn ngày nay thích dùng thuật ngữ hypersexuality thay vì nymphomania để chỉ hội chứng này ở cả nam lẫn nữ.

Từ nymphet được dùng để chỉ một cô gái phát triển sinh lý sớm và đã trở thành nổi tiếng với tác phẩm Lolita của Vladimir Nabokov. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là Humbert Humbert đã dùng thuật ngữ này rất nhiều lần để chỉ Lolita.

Truyền thuyết kể rằng các thần nữ nếu kết đôi với thần biển Poseidon sẽ sinh ra một sinh vật huyền thọai là cyclops.[3]

Phân loại

Theo H.J. Rose, tất cả các tên gọi của những nhóm thần nữ khác nhau đều là tính từ số nhiều giống cái đi với danh từ nymphai và không có một sự phân lọai nào có thể đáp ứng tất cả các nguyên tắc và yêu cầu. Do đó, các nhóm thần nữ thường hay bị trùng nhau và càng gây khó khăn hơn cho một bảng phân loại chính xác. Rose cho rằng dryadhamadryad là các tiên cây nói chung, meliai là tiên cây tần bì và naiad là các tiên dưới nước. [4]


Tham khảo

  1. ^ Xem thêm Jennifer Larson, "Handmaidens of Artemis?", The Classical Journal 92.3 (February 1997), trang 249-257.
  2. ^ Lawson, John Cuthbert (1910). Modern Greek Folklore and Ancient Greek Religion (ấn bản 1). Cambridge: Cambridge University Press. tr. 131.
  3. ^ http://ancienthistory.about.com/od/godsandgoddesses/a/Nymphs.htm
  4. ^ Rose, Herbert Jennings (1959). A Handbook of Greek Mythology (ấn bản 1). New York: E.P. Dutton & Co. tr. 173. ISBN 0-525-47041-7.

Bản mẫu:Thần thoại Hy Lạp (thần nữ)