Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cò mỏ giày”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: {{Cite journal → {{Chú thích tạp chí, {{Taxobox → {{Bảng phân loại, {{Tham khảo|2}} → {{Tham khảo|30em}}, {{wikispecies-inline → {{wikispecies nội dòng
Dòng 1: Dòng 1:
{{Bảng phân loại
{{Taxobox
| name = Cò mỏ giày
| name = Cò mỏ giày
| status = VU
| status = VU
Dòng 25: Dòng 25:


Tính chất đơn độc của cò mỏ giày cũng thể hiện ở thói quen sinh sản của chúng. Tổ thường xuất hiện với số lượng ít hơn ba tổ trên một km vuông, không giống như diệc, cò, vạc, bồ nông chủ yếu làm tổ theo đàn. Cặp cò mỏ giày sinh sản bảo vệ mạnh mẽ lãnh thổ 2-4 km2 khỏi bị các con cò mỏ giày khác xâm lấn. Ở cực bắc và nam của phạm vi loài này, việc làm tổ bắt đầu ngay sau khi mưa kết thúc. Ở những vùng trung tâm hơn của dãy, chúng có thể làm tổ vào gần cuối mùa mưa để nở vào khoảng đầu mùa mưa năm sau. Cả chim bố và chim mẹ đều tham gia xây tổ trên giàn nổi, sau khi dọn sạch diện tích có chiều ngang khoảng 3 m. Mảng thực vật làm tổ lớn, hình phẳng thường bị ngập một phần trong nước và có thể sâu đến 3 m. Tổ có chiều rộng khoảng 1-1,7 m. Cả tổ và mảng xây tổ được làm bằng thực vật thủy sinh. Ở Sudan, những chiếc tổ dường như có thể nâng đỡ trọng lượng của một người đàn ông trưởng thành, mặc dù điều này không đúng ở Zambia. Mỗi tổ có từ một đến ba quả trứng màu trắng.
Tính chất đơn độc của cò mỏ giày cũng thể hiện ở thói quen sinh sản của chúng. Tổ thường xuất hiện với số lượng ít hơn ba tổ trên một km vuông, không giống như diệc, cò, vạc, bồ nông chủ yếu làm tổ theo đàn. Cặp cò mỏ giày sinh sản bảo vệ mạnh mẽ lãnh thổ 2-4 km2 khỏi bị các con cò mỏ giày khác xâm lấn. Ở cực bắc và nam của phạm vi loài này, việc làm tổ bắt đầu ngay sau khi mưa kết thúc. Ở những vùng trung tâm hơn của dãy, chúng có thể làm tổ vào gần cuối mùa mưa để nở vào khoảng đầu mùa mưa năm sau. Cả chim bố và chim mẹ đều tham gia xây tổ trên giàn nổi, sau khi dọn sạch diện tích có chiều ngang khoảng 3 m. Mảng thực vật làm tổ lớn, hình phẳng thường bị ngập một phần trong nước và có thể sâu đến 3 m. Tổ có chiều rộng khoảng 1-1,7 m. Cả tổ và mảng xây tổ được làm bằng thực vật thủy sinh. Ở Sudan, những chiếc tổ dường như có thể nâng đỡ trọng lượng của một người đàn ông trưởng thành, mặc dù điều này không đúng ở Zambia. Mỗi tổ có từ một đến ba quả trứng màu trắng.
Những quả trứng có kích thước từ 80 đến 90 mm cao 56 đến 61 mm và nặng khoảng 164 g. Thời gian ấp trứng kéo dài khoảng 30 ngày. Cả chim bố và mẹ đều tích cực ấp trứng, che bóng, canh gác và cho chim non ăn, mặc dù chim mẹ có lẽ chăm chú hơn một chút. Đồ ăn được trào ra toàn bộ từ miệng chim bố mẹ vào mỏ chim non. Cò mỏ giày hiếm khi nuôi nhiều hơn một con chim nonn, nhưng chúng sẽ nở nhiều chim non hơn. Những con non nở sau thường chết và được dùng để "dự phòng" trong trường hợp con chim non lớn nhất chết hoặc yếu. Khoảng 105 ngày thì chim con đủ lông đủ cánh và chim non có thể bay tốt sau 112 ngày. Tuy nhiên, chúng vẫn được cho ăn có thể là một tháng hoặc hơn sau đó. Cò mỏ giày mất ba năm trước khi chúng thành thục sinh sản.<ref name="Hancock">{{Cite book |last1=Hancock |first1=James A. |title=Storks, ibises and spoonbills of the world |last2=Kushan |date=1992 |publisher=Academic Press/Harcourt Brace Jovanovich, Publishers |isbn=0-12-322730-5 |location=London |oclc=26933579}}</ref>
Những quả trứng có kích thước từ 80 đến 90&nbsp;mm cao 56 đến 61&nbsp;mm và nặng khoảng 164 g. Thời gian ấp trứng kéo dài khoảng 30 ngày. Cả chim bố và mẹ đều tích cực ấp trứng, che bóng, canh gác và cho chim non ăn, mặc dù chim mẹ có lẽ chăm chú hơn một chút. Đồ ăn được trào ra toàn bộ từ miệng chim bố mẹ vào mỏ chim non. Cò mỏ giày hiếm khi nuôi nhiều hơn một con chim nonn, nhưng chúng sẽ nở nhiều chim non hơn. Những con non nở sau thường chết và được dùng để "dự phòng" trong trường hợp con chim non lớn nhất chết hoặc yếu. Khoảng 105 ngày thì chim con đủ lông đủ cánh và chim non có thể bay tốt sau 112 ngày. Tuy nhiên, chúng vẫn được cho ăn có thể là một tháng hoặc hơn sau đó. Cò mỏ giày mất ba năm trước khi chúng thành thục sinh sản.<ref name="Hancock">{{chú thích sách |last1=Hancock |first1=James A. |title=Storks, ibises and spoonbills of the world |last2=Kushan |date=1992 |publisher=Academic Press/Harcourt Brace Jovanovich, Publishers |isbn=0-12-322730-5 |location=London |oclc=26933579}}</ref>
Hành vi làm tổ của cò mỏ giày là khó quan sát, do đó phải đặt camera để quan sát chúng từ xa nhằm thu thập dữ liệu hành vi. <ref>{{Cite journal|last1=Mullers|first1=Ralf H. E.|last2=Amar|first2=Arjun|date=March 2015|title=Parental Nesting Behavior, Chick Growth and Breeding Success of Shoebills (Balaeniceps rex) in the Bangweulu Wetlands, Zambia|url=https://bioone.org/journals/waterbirds/volume-38/issue-1/063.038.0102/Parental-Nesting-Behavior-Chick-Growth-and-Breeding-Success-of-Shoebills/10.1675/063.038.0102.full|journal=Waterbirds|volume=38|issue=1|pages=1–9|doi=10.1675/063.038.0102|s2cid=84828980|issn=1524-4695}}</ref>
Hành vi làm tổ của cò mỏ giày là khó quan sát, do đó phải đặt camera để quan sát chúng từ xa nhằm thu thập dữ liệu hành vi.<ref>{{Chú thích tạp chí|last1=Mullers|first1=Ralf H. E.|last2=Amar|first2=Arjun|date=March 2015|title=Parental Nesting Behavior, Chick Growth and Breeding Success of Shoebills (Balaeniceps rex) in the Bangweulu Wetlands, Zambia|url=https://bioone.org/journals/waterbirds/volume-38/issue-1/063.038.0102/Parental-Nesting-Behavior-Chick-Growth-and-Breeding-Success-of-Shoebills/10.1675/063.038.0102.full|journal=Waterbirds|volume=38|issue=1|pages=1–9|doi=10.1675/063.038.0102|s2cid=84828980|issn=1524-4695}}</ref>


== Hình ảnh ==
== Hình ảnh ==
Dòng 41: Dòng 41:


==Chú thích==
==Chú thích==
{{Tham khảo|2}}
{{Tham khảo|30em}}


==Tham khảo==
==Tham khảo==
* {{wikispecies-inline|Balaeniceps rex}}
* {{wikispecies nội dòng|Balaeniceps rex}}


[[Thể loại:Balaeniceps|R]]
[[Thể loại:Balaeniceps|R]]

Phiên bản lúc 01:27, ngày 8 tháng 9 năm 2021

Cò mỏ giày
Ảnh chụp ở sở thú Ueno, Tokyo, Nhật Bản
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Aves
Bộ (ordo)Pelecaniformes
Họ (familia)Balaenicipitidae
Bonaparte, 1853
Chi (genus)Balaeniceps
Gould, 1850
Loài (species)B. rex
Danh pháp hai phần
Balaeniceps rex
Gould, 1850

Cò mỏ giày (danh pháp hai phần: Balaeniceps rex) là một loài chim thuộc họ Balaenicipitidae. Cò mỏ giày tạo thành họ đơn loài Balaenicipitidae, thường được đặt trong bộ Ciconiiformes truyền thống, nhưng thực tế nó là dòng dõi rất khác biệt của bộ Pelecaniformes. Con chim trưởng thành cao 115–150 cm, dài 100–140 cm, sải cánh dài 230–260 cm và nặng 4–7 kg. Mỏ của có chiều dài trung bình 30 cm. Chim trưởng thành chủ yếu là màu xám trong khi chim chưa trưởng thành có màu nâu hơn. Nó sống ở vùng nhiệt đới phía đông châu Phi trong đầm lầy lớn từ Sudan để Zambia[2].

Sinh sản

Tính chất đơn độc của cò mỏ giày cũng thể hiện ở thói quen sinh sản của chúng. Tổ thường xuất hiện với số lượng ít hơn ba tổ trên một km vuông, không giống như diệc, cò, vạc, bồ nông chủ yếu làm tổ theo đàn. Cặp cò mỏ giày sinh sản bảo vệ mạnh mẽ lãnh thổ 2-4 km2 khỏi bị các con cò mỏ giày khác xâm lấn. Ở cực bắc và nam của phạm vi loài này, việc làm tổ bắt đầu ngay sau khi mưa kết thúc. Ở những vùng trung tâm hơn của dãy, chúng có thể làm tổ vào gần cuối mùa mưa để nở vào khoảng đầu mùa mưa năm sau. Cả chim bố và chim mẹ đều tham gia xây tổ trên giàn nổi, sau khi dọn sạch diện tích có chiều ngang khoảng 3 m. Mảng thực vật làm tổ lớn, hình phẳng thường bị ngập một phần trong nước và có thể sâu đến 3 m. Tổ có chiều rộng khoảng 1-1,7 m. Cả tổ và mảng xây tổ được làm bằng thực vật thủy sinh. Ở Sudan, những chiếc tổ dường như có thể nâng đỡ trọng lượng của một người đàn ông trưởng thành, mặc dù điều này không đúng ở Zambia. Mỗi tổ có từ một đến ba quả trứng màu trắng. Những quả trứng có kích thước từ 80 đến 90 mm cao 56 đến 61 mm và nặng khoảng 164 g. Thời gian ấp trứng kéo dài khoảng 30 ngày. Cả chim bố và mẹ đều tích cực ấp trứng, che bóng, canh gác và cho chim non ăn, mặc dù chim mẹ có lẽ chăm chú hơn một chút. Đồ ăn được trào ra toàn bộ từ miệng chim bố mẹ vào mỏ chim non. Cò mỏ giày hiếm khi nuôi nhiều hơn một con chim nonn, nhưng chúng sẽ nở nhiều chim non hơn. Những con non nở sau thường chết và được dùng để "dự phòng" trong trường hợp con chim non lớn nhất chết hoặc yếu. Khoảng 105 ngày thì chim con đủ lông đủ cánh và chim non có thể bay tốt sau 112 ngày. Tuy nhiên, chúng vẫn được cho ăn có thể là một tháng hoặc hơn sau đó. Cò mỏ giày mất ba năm trước khi chúng thành thục sinh sản.[3] Hành vi làm tổ của cò mỏ giày là khó quan sát, do đó phải đặt camera để quan sát chúng từ xa nhằm thu thập dữ liệu hành vi.[4]

Hình ảnh

Chú thích

  1. ^ BirdLife International (2012). Balaeniceps rex. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2013.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  2. ^ del Hoyo, J. Elliott, A. & Sargatal, J. (editors). (1992) Handbook of the Birds of the World. Volume 1: Ostrich to Ducks. Lynx Edicions. ISBN 84-ngày 85 tháng 10 năm 7334
  3. ^ Hancock, James A.; Kushan (1992). Storks, ibises and spoonbills of the world. London: Academic Press/Harcourt Brace Jovanovich, Publishers. ISBN 0-12-322730-5. OCLC 26933579.
  4. ^ Mullers, Ralf H. E.; Amar, Arjun (tháng 3 năm 2015). “Parental Nesting Behavior, Chick Growth and Breeding Success of Shoebills (Balaeniceps rex) in the Bangweulu Wetlands, Zambia”. Waterbirds. 38 (1): 1–9. doi:10.1675/063.038.0102. ISSN 1524-4695. S2CID 84828980.

Tham khảo