Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gấu mèo Cozumel”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Tham khảo: AlphamaEditor, Add categories, part of Category Project Executed time: 00:00:01.7288993 using AWB
Bổ sung thêm thông tin và cập nhật bảng phân loại khoa học.
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Dòng 3: Dòng 3:
| image_caption =
| image_caption =
| status = CR
| status = CR
| status_system = iucn3.1
| status_system = IUCN3.1
| status_ref = <ref name="IUCN">{{IUCN2008 | assessors=Cuarón AD, de Grammont PC, Vázquez-Domínguez E, Valenzuela-Galván D, García-Vasco D, Reid F & Helgen K | year = 2008 | id = 18267 | title = Procyon pygmaeus | downloaded = 26 tháng 1 năm 2008}}</ref>
| status_ref = <ref name="IUCN">{{cite iucn | vauthors=Cuarón AD, de Grammont PC, Vázquez-Domínguez E, Valenzuela-Galván D, García-Vasco D, Reid F, Helgen K | year = 2008 | url = https://www.iucnredlist.org/details/18267/0 | title = ''Procyon pygmaeus'' | access-date = 2008-01-26|ref=harv}}</ref>
| regnum = [[Động vật|Animalia]]
| regnum = [[Động vật|Animalia]]
| phylum = [[Động vật có dây sống|Chordata]]
| phylum = [[Động vật có dây sống|Chordata]]
Dòng 16: Dòng 16:
| range_map = Cozumel Raccoon area.png
| range_map = Cozumel Raccoon area.png
| trend = down<ref name="Zeveloff">{{chú thích sách | last=Zeveloff | first=Samuel I. | title=Raccoons: A Natural History | publisher=Smithsonian Books | location=Washington, D. C. | year=2002 | isbn=978-1-58834-033-7 | page=45}}</ref>
| trend = down<ref name="Zeveloff">{{chú thích sách | last=Zeveloff | first=Samuel I. | title=Raccoons: A Natural History | publisher=Smithsonian Books | location=Washington, D. C. | year=2002 | isbn=978-1-58834-033-7 | page=45}}</ref>
| name = Gấu mèo Cozumel<ref name=msw3>{{MSW3 Wozencraft | pages=627–628 | id=14001658}}</ref>
| name = ''Procyon pygmaeus ''
|range_map_caption=Phạm vi phân bố gấu mèo Cozumel}}
}}
'''Gấu mèo Cozumel''' (''Procyon pygmaeus''), còn được gọi là '''gấu mèo lùn''',<ref name="Helgen2005">{{cite book|title=Contribuciones mastozoológicas en homenaje a Bernardo Villa|last=Helgen|first=Kristofer M.|author2=Wilson, Don E.|publisher=Instituto de Ecología of the Universidad Nacional Autónoma de México|year=2005|isbn=978-970-32-2603-0|editor=Sánchez-Cordero, Víctor|location=Mexico City|pages=221–236|chapter=A Systematic and Zoogeographic Overview of the Raccoons of Mexico and Central America|access-date=2008-08-09|editor2=Medellín, Rodrigo A.|chapter-url=https://books.google.com/books?id=PQphdAd9KKcC}}<!-- PAGE 223 --></ref> là một loài gấu mèo đảo [[Loài cực kỳ nguy cấp|cực kỳ nguy cấp]], [[đặc hữu]] trên đảo [[Cozumel]] ngoài khơi bán đảo [[Yucatán|Yucatan]], [[México|Mexico]].<ref name="Zeveloff">{{cite book|url=https://archive.org/details/raccoonsnaturalh0000zeve/page/45|title=Raccoons: A Natural History|last=Zeveloff|first=Samuel I.|publisher=Smithsonian Books|year=2002|isbn=978-1-58834-033-7|location=Washington, D. C.|page=[https://archive.org/details/raccoonsnaturalh0000zeve/page/45 45]}}</ref>
'''Gấu mèo Cozumel''' (danh pháp khoa học: '''''Procyon pygmaeus''''') là một loài [[lớp Thú|động vật có vú]] trong [[họ Gấu mèo Bắc Mỹ]], [[bộ Ăn thịt]]. Loài này được [[Clinton Hart Merriam|Merriam]] mô tả năm 1901.<ref name=msw3/>

Đây là loài đặc hữu của [[đảo Cozumel]] ngoài khơi [[bán đảo Yukatan]].
Nó còn được gọi là '''gấu mèo thấp''',<ref name="McFaddenSambrottoMedellinGompper2006">{{cite journal|vauthors=McFadden KW, Sambrotto RN, Medellín RA, Gompper ME|year=2006|title=Feeding habits of endangered pygmy raccoons (''Procyon pygmaeus'') based on stable isotope and fecal analyses|journal=Journal of Mammalogy|volume=87|issue=3|pages=501–509|doi=10.1644/05-MAMM-A-150R1.1}}</ref> và '''gấu mèo đảo Cozumel'''.
== Hình ảnh ==

<gallery>
== Phân loại ==
Tập tin:Procyon pygmaeus cub.jpg
[[Clinton Hart Merriam]] lần đầu tiên mô tả gấu mèo Cozumel có [[Hình thái học (sinh học)|hình thái]] khác biệt so với họ hàng ở đại lục của nó, [[phân loài]] [[Gấu mèo|gấu mèo thông thường]] ''Procyon lotor hernandezii'', vào năm 1901. Kể từ đó, các nhà khoa học khác thường đồng ý với đánh giá của Merriam, đặc biệt là [[Kristofer Helgen]] và [[Don Ellis Wilson|Don E. Wilson]] bác bỏ phân loại này cho bốn gấu mèo đảo khác trong các nghiên cứu của họ vào năm 2003 và 2005.<ref name="Helgen2005" /><ref>{{cite journal|last=Helgen|first=Kristofer M.|author2=Wilson, Don E.|date=January 2003|title=Taxonomic status and conservation relevance of the raccoons (''Procyon'' spp.) of the West Indies|url=http://pdfs.semanticscholar.org/5175/2c12c39c8a60276d89f45abd18f91678bc58.pdf|journal=Journal of Zoology|volume=259|issue=1|pages=69–76|doi=10.1017/S0952836902002972|issn=0952-8369}}</ref> Do đó, gấu mèo Cozumel được liệt kê là loài riêng biệt duy nhất của chi ''Procyon'' bên cạnh gấu mèo thông thường và gấu mèo ăn cua trong ấn bản thứ ba của Các loài động vật có vú trên thế giới. Một nghiên cứu khảo cổ học cho thấy [[Maya]] từ Cozumel đã sử dụng những con gấu mèo bị giảm tầm vóc, điều này cho thấy sự giảm kích thước của loài gấu mèo này không phải là hiện tượng gần đây.<ref name="Hamblin">{{cite book|title=Animal Use by the Cozumel Maya|author=Hamblin, NL|publisher=The University of Arizona Press|year=1984|location=Tucson}}</ref>
Tập tin:Raccoons of North & Middle America (1950) P. l. pygmaeus.png

Tập tin:Raccoons of North & Middle America (1950) P. lotor & P. pygmaeus.png
Không có [[hóa thạch]] thực sự của loài này được biết đến, mặc dù các bộ xương đã được tìm thấy tại một số địa điểm khảo cổ trên đảo. Đảo Cozumel tự tách ra khỏi đất liền vào cuối [[thế Pleistocen]], do đó loài này khó có thể già hơn 122.000 năm. Dữ liệu từ các nghiên cứu về đồng hồ phân tử ngụ ý ngày phân kỳ từ loài gấu mèo thông thường ở bất kỳ đâu trong khoảng 26.000 đến 69.000 năm trước.<ref name="VillaMeza2011">{{cite journal|author=de Villa-Meza, A.|display-authors=etal|year=2011|title=''Procyon pygmaeus'' (Carnivora: Procyonidae)|journal=Mammalian Species|volume=43|issue=1|pages=87–93|doi=10.1644/877.1|doi-access=free}}</ref>
</gallery>

== tả ==
[[File:Raccoons_of_North_&_Middle_America_(1950)_P._lotor_&_P._pygmaeus.png|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Raccoons_of_North_&_Middle_America_(1950)_P._lotor_&_P._pygmaeus.png|trái|nhỏ|Hộp sọ gấu mèo thông thường (trái) và hộp sọ gấu mèo Cozumel (phải).]]
Merriam mô tả loài gấu mèo Cozumel nhỏ hơn rõ rệt, cả về hình dáng bên ngoài lẫn hình thù và dễ phân biệt với loài gấu mèo thông thường vì "dải họng đen rộng và đuôi màu vàng vàng, phần sau ngắn nở ra và mũi tròn trịa và răng đặc biệt" của nó.<ref name="Merriam">{{cite journal|author=Merriam, CH|year=1901|title=Six new mammals from Cozumel Island, Yucatan|journal=Proceedings of the Biological Society of Washington|volume=14|pages=99–104}}</ref> Hàm răng giảm của nó chỉ ra một thời gian dài bị cô lập.<ref name="Goldman1950">{{cite journal|author=Goldman, E.A.|last2=Jackson|first2=Hartley H. T.|year=1950|title=Raccoons of North and Middle America|url=https://digital.library.unt.edu/ark:/67531/metadc700996/m2/1/high_res_d/nafa.60.0001.pdf|journal=North American Fauna|volume=60|pages=1–153|doi=10.3996/nafa.60.0001}}</ref>

Ngoài kích thước nhỏ hơn và mõm tròn hơn, gấu mèo Cozumel có hình dáng tương tự như gấu mèo thông thường. Bộ lông ở phần trên cơ thể có màu xám đen, thỉnh thoảng có lông đen, trong khi phần dưới và chân có màu xám nhạt. Phần đỉnh đầu không có sắc màu da trâu như phần còn lại của cơ thể và có màu xám hoa râm, tương phản với bộ lông trắng ở mõm và cằm, và với hoa văn "mặt nạ" màu đen xung quanh mắt. Một dòng lông màu xám nâu chạy dọc xuống giữa mõm, nối các mẫu "mặt nạ" ở hai bên. Đuôi màu vàng nhạt, với sáu hoặc bảy vòng màu đen hoặc nâu trở nên mờ hơn ở mặt dưới. Ở con đực, phần gáy có một mảng lông màu cam, tương đối sáng.<ref name="VillaMeza2011" />

Con trưởng thành có tổng chiều dài từ 58 đến 82 cm, bao gồm cả đuôi 23 đến 26 cm, và nặng từ 3 đến 4 kg. Điều này đại diện cho một ví dụ về chứng lùn không đáng kể, và các loài động vật này trung bình ngắn hơn khoảng 18% và nhẹ hơn 45% so với phân loài của gấu mèo thông thường được tìm thấy trên đất liền địa phương, ''P. lotor shufeldti''. Gấu mèo Cozumel cũng có biểu hiện [[dị hình giới tính]], với con đực nặng hơn con cái khoảng 20%.<ref name="VillaMeza2011" />

== Phân bố và sinh cảnh ==
Theo [[sách đỏ IUCN]], loài này được coi là loài cực kỳ nguy cấp. Trên thực tế, họ báo cáo rằng chỉ còn khoảng 250–300 cá thể trên hành tinh.<ref name="McFadden2004">{{cite journal|author=McFadden, K. W.|year=2004|title=The ecology, evolution, and natural history of the endangered carnivores of Cozumel Island, Mexico|type=PhD Dissertation|location=New York|publisher=Columbia University}}</ref> Những con gấu mèo này rất nguy cấp vì phạm vi địa lý nhỏ của chúng. Nó là loài đặc hữu của Đảo [[Cozumel]], một hòn đảo có diện tích khoảng 478 km², nằm ngoài khơi bờ biển phía đông của Bán đảo [[Yucatán|Yucatan]] ở Mexico.<ref name="McFaddenSambrottoMedellinGompper2006" /> Đảo Cozumel hỗ trợ một số loài ăn thịt khác, bao gồm [[Nasua narica|coati lùn]] (''Nasua narica nelsoni'') và [[Urocyon|cáo xám lùn]] (''Urocyon'' sp.).<ref name="McFaddenGarcia-VascoCuaronValenzuela-GalvanMedellinGompper2009">{{cite journal|last1=McFadden|first1=Katherine W.|last2=García-Vasco|first2=Denise|last3=Cuarón|first3=Alfredo D.|last4=Valenzuela-Galván|first4=David|last5=Medellín|first5=Rodrigo A.|last6=Gompper|first6=Matthew E.|year=2009|title=Vulnerable island carnivores: the endangered endemic dwarf procyonids from Cozumel Island|journal=Biodiversity Conservation|volume=19|issue=2|pages=491–502|doi=10.1007/s10531-009-9701-8}}</ref><ref name="CuaronMartinez-MoralesMcFaddenValenzuelaGompper2004">{{cite journal|author1=Cuaron, A.D.|author2=Martinez-Morales M.A.|author3=McFadden K.W.|author4=Valenzuela D.|author5=Gompper M.E.|year=2004|title=The status of dwarf carnivores on Cozumel Island, Mexico|journal=Biodiversity Conservation|volume=13|issue=2|pages=317–331|citeseerx=10.1.1.511.2040|doi=10.1023/B:BIOC.0000006501.80472.cc}}</ref> Các đảo thường thiếu động vật có vú trên cạn, đặc biệt là động vật ăn thịt, khiến gấu mèo Cozumel và những loài khác trở nên độc đáo.<ref name="AlcoverMcMinn1994">{{cite journal|author1=Alcover, J.A.|author2=M. McMinn|year=1994|title=Predators of vertebrates on islands|journal=BioScience|volume=44|issue=1|pages=12–18|doi=10.2307/1312401|jstor=1312401}}</ref>

Trên đảo, gấu mèo sinh sống ở nhiều loại môi trường sống, nhưng chủ yếu giới hạn ở các khu [[rừng ngập mặn]] và đất ngập nước cát ở mũi phía tây bắc của đảo.<ref name="McFaddenSambrottoMedellinGompper2006" /><ref name="CuaronMartinez-MoralesMcFaddenValenzuelaGompper2004" /> Tuy nhiên, nó cũng bị bắt trong các khu rừng bán thường xanh và các vùng đất nông nghiệp xung quanh các môi trường sống ưa thích này,<ref name="VillaMeza2011" /><ref name="McFaddenGarcia-VascoCuaronValenzuela-GalvanMedellinGompper2009" /> và trong công viên sinh thái [[Punta Sur]] ở cuối phía nam của hòn đảo.<ref name="CuaronMartinez-MoralesMcFaddenValenzuelaGompper2004" />

== Hành vi ==
Tương đối ít thông tin về kích thước nhóm của gấu mèo. Chúng chủ yếu là động vật sống về đêm và [[Động vật sống đơn độc|sống đơn độc]], nhưng đôi khi có thể tạo thành các nhóm gia đình có thể bao gồm mẹ và các con non.<ref name="CuaronMartinez-MoralesMcFaddenValenzuelaGompper2004" />

Gấu mèo sống với mật độ khoảng 17-27 con/km²,<ref name="McFaddenGarcia-VascoCuaronValenzuela-GalvanMedellinGompper2009" /> và cư trú trong phạm vi nhà trung bình khoảng 67 ha.<ref name="Cuaron2009">{{cite journal|author=Cuarón, A. D.|display-authors=etal|year=2009|title=Conservation of the endemic dwarf carnivores of Cozumel Island, Mexico|url=http://www.smallcarnivoreconservation.org/sccwiki/images/0/00/SCC41_Cuaron_et_al_2009.pdf|journal=Small Carnivore Conservation|volume=41|issue=1|pages=15–21|archive-url=https://web.archive.org/web/20120331072244/http://www.smallcarnivoreconservation.org/sccwiki/images/0/00/SCC41_Cuaron_et_al_2009.pdf|archive-date=2012-03-31|url-status=dead}}</ref> Tuy nhiên, các cá thể dường như không bảo vệ lãnh thổ ở bất kỳ mức độ nào, và họ hàng gần của chúng, loài gấu mèo thông thường, có thể tồn tại ở mật độ rất cao khi thức ăn dồi dào.<ref name="LotzeAnderson1979">{{cite journal|author1=Lotze, J.-H.|author2=Anderson, S.|year=1979|title=''Procyon lotor''|journal=Mammalian Species|volume=119|issue=119|pages=1–8|doi=10.2307/3503959|jstor=3503959}}</ref> Mặc dù chưa có nghiên cứu chi tiết về thói quen sinh sản của chúng, nhưng con cái dường như sinh con chủ yếu từ tháng 11 đến tháng 1, có thể là lứa thứ hai trong những tháng mùa hè..<ref name="VillaMeza2011" />
[[File:Cozumel_Raccoon1.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Cozumel_Raccoon1.jpg|thế=Cozumel raccoon|trái|nhỏ|Gấu mèo Cozumel]]

== Chế độ ăn ==
Đặc điểm môi trường sống của gấu mèo Cozumel một phần lớn là do loại thức ăn mà chúng tiêu thụ. Chế độ ăn tổng thể của chúng bao gồm cua, trái cây, ếch, thằn lằn và côn trùng.<ref name="McFaddenSambrottoMedellinGompper2006" /> Chúng là một loài [[động vật ăn tạp]] chung, nhưng cua chiếm hơn 50% khẩu phần ăn của chúng.<ref name="McFaddenSambrottoMedellinGompper2006" /> Chế độ ăn của chúng hơi theo mùa.<ref name="McFaddenSambrottoMedellinGompper2006" /> Trong mùa mưa, trái cây và thảm thực vật phong phú hơn và trở thành một phần lớn trong khẩu phần ăn của gấu mèo. Sau đó vào mùa khô, chúng bắt đầu tiêu thụ nhiều cua, côn trùng, thằn lằn, v.v ... Cua chiếm hơn một nửa lượng thức ăn mà chúng ăn có thể ảnh hưởng đến sự phân bố hạn chế của chúng: chúng ở gần vùng nước nơi có nhiều cua.

== Chuyên môn hình thái học ==
Một số lượng lớn các nghiên cứu đã được thực hiện để xác định xem gấu mèo Cozumel có thực sự là một loài riêng biệt khác với gấu mèo thông thường hay không. Cuaron ''và cộng sự.'' (2004) báo cáo rằng nghiên cứu được thực hiện bởi nhiều học giả khác nhau kết luận rằng chúng là hai loài riêng biệt.<ref name="CuaronMartinez-MoralesMcFaddenValenzuelaGompper2004" /> Kích thước cơ thể và kích thước sọ đã được báo cáo là nhỏ hơn ở ''P. pygmaeus'', do đó có tên là lùn. Những khác biệt về hình thái bao gồm dải họng đen rộng, đuôi vàng và răng bị giảm; "những đặc điểm này và các đặc điểm khác chỉ ra một thời gian dài bị cô lập".<ref name="CuaronMartinez-MoralesMcFaddenValenzuelaGompper2004" />

== Tình trạng bảo tồn ==
Động vật ăn thịt trên đảo thường tuyệt chủng ngay sau khi con người xuất hiện.<ref name="AlcoverMcMinn1994" /> Mối nguy hiểm chính đối với gấu mèo Cozumel là sự phát triển của đảo Cozumel do ngành du lịch.<ref name="Glatston1994">{{cite journal|year=1994|title=The red panda, olingos, coatis, raccoons, and their relatives: status survey and conservation action plan for procyonids and ailurids|journal=Gland, Switzerland: IUCN (World Conservation Union)|editor=Glatston, A.R.}}</ref> Bởi vì gấu mèo chỉ nằm ở một khu vực ven biển nhỏ ở góc tây bắc của hòn đảo - một khu vực được bảo vệ để phát triển - những tác động của việc [[mất môi trường sống]] đặc biệt nghiêm trọng.<ref name="Glatston1994" /> Không có luật bảo vệ gấu mèo và cũng không có đất dành cho chúng.<ref name="Glatston1994" />

Các mối đe dọa mới hơn đối với sự tồn tại của chúng đã được nghiên cứu trong những năm gần đây là bệnh tật và ký sinh trùng.<ref name="McFaddenWadeDuboviGompper2005">{{cite journal|author1=McFadden, K.W.|author2=Wade, S.E.|author3=Dubovi, E.J.|author4=Gompper, M.E.|year=2005|title=A serology and fecal parsitology survey of the critically endangered pygmy raccoon (Procyon pygmaeus).|journal=Journal of Wildlife Diseases|volume=41|issue=3|pages=615–617|doi=10.7589/0090-3558-41.3.615|pmid=16244074|name-list-style=amp}}</ref> Cozumel có một quần thể mèo hoang và chó mèo nhà có thể truyền bệnh cho gấu mèo.<ref name="McFaddenWadeDuboviGompper2005" /> Trung bình, có khoảng 2 loài khác nhau hiện diện trong mỗi vật chủ. Đó không phải là sự phong phú tổng thể mà chỉ đơn giản là số lượng loài tuyệt đối được tìm thấy. Một số con gấu mèo bị bắt đã phát triển kháng thể chống lại một số bệnh. Mèo chỉ mới xuất hiện trên đảo do con người mang chúng đến làm thú cưng.<ref name="McFaddenWadeDuboviGompper2005" />

=== Hành động bảo tồn ===
Một cách tiếp cận bảo tồn sẽ là giảm thiểu hoặc thậm chí loại bỏ tác động của con người đến các khu rừng ngập mặn, đặc biệt là ở góc tây bắc của đảo.<ref name="McFaddenGarcia-VascoCuaronValenzuela-GalvanMedellinGompper2009" /> Điều này sẽ dẫn đến việc ngừng phát triển ở khu vực này và thiết lập vùng đất được bảo vệ cho gấu mèo. Vùng đất được thiết lập này sẽ bao gồm môi trường sống quan trọng đối với sự tồn tại của các loài, quan trọng nhất là rừng ngập mặn và rừng bán thường xanh xung quanh.

Một phương pháp khác có thể giúp khôi phục các quần thể là kỹ thuật nuôi nhốt.<ref name="Glatston1994" /> Nếu chúng sẵn sàng sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt như những con gấu mèo thông thường, nó có thể được sử dụng thành công. Ngoài ra, sự xuất hiện của vật nuôi, đặc biệt là mèo hoang, mang lại nhiều bệnh tật và ký sinh trùng đang có ảnh hưởng đáng kể đến gấu mèo. Phương pháp tốt nhất để giảm những tác động này là loại bỏ càng nhiều mèo hoang càng tốt. Để bất kỳ hành động bảo tồn nào thành công, nhân viên bảo tồn sẽ cần phải tìm cách thỏa hiệp với ngành du lịch để cứu gấu mèo Cozumel.<ref name="Glatston1994" />

Glatston cũng kêu gọi các nhà nghiên cứu tiếp tục kiểm tra loài này để đảm bảo rằng nó là một loài riêng biệt với đơn vị phân loại chị em trên đất liền của nó.<ref name="Glatston1994" />


==Chú thích==
==Chú thích==

Phiên bản lúc 13:45, ngày 21 tháng 1 năm 2021

Gấu mèo Cozumel[1]
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Carnivora
Họ (familia)Procyonidae
Chi (genus)Procyon
Loài (species)P. pygmaeus
Danh pháp hai phần
Procyon pygmaeus
(Merriam, 1901)[1]
Phạm vi phân bố gấu mèo Cozumel
Phạm vi phân bố gấu mèo Cozumel

Gấu mèo Cozumel (Procyon pygmaeus), còn được gọi là gấu mèo lùn,[3] là một loài gấu mèo đảo cực kỳ nguy cấp, đặc hữu trên đảo Cozumel ngoài khơi bán đảo Yucatan, Mexico.[4]

Nó còn được gọi là gấu mèo thấp,[5]gấu mèo đảo Cozumel.

Phân loại

Clinton Hart Merriam lần đầu tiên mô tả gấu mèo Cozumel có hình thái khác biệt so với họ hàng ở đại lục của nó, phân loài gấu mèo thông thường Procyon lotor hernandezii, vào năm 1901. Kể từ đó, các nhà khoa học khác thường đồng ý với đánh giá của Merriam, đặc biệt là Kristofer HelgenDon E. Wilson bác bỏ phân loại này cho bốn gấu mèo đảo khác trong các nghiên cứu của họ vào năm 2003 và 2005.[3][6] Do đó, gấu mèo Cozumel được liệt kê là loài riêng biệt duy nhất của chi Procyon bên cạnh gấu mèo thông thường và gấu mèo ăn cua trong ấn bản thứ ba của Các loài động vật có vú trên thế giới. Một nghiên cứu khảo cổ học cho thấy Maya từ Cozumel đã sử dụng những con gấu mèo bị giảm tầm vóc, điều này cho thấy sự giảm kích thước của loài gấu mèo này không phải là hiện tượng gần đây.[7]

Không có hóa thạch thực sự của loài này được biết đến, mặc dù các bộ xương đã được tìm thấy tại một số địa điểm khảo cổ trên đảo. Đảo Cozumel tự tách ra khỏi đất liền vào cuối thế Pleistocen, do đó loài này khó có thể già hơn 122.000 năm. Dữ liệu từ các nghiên cứu về đồng hồ phân tử ngụ ý ngày phân kỳ từ loài gấu mèo thông thường ở bất kỳ đâu trong khoảng 26.000 đến 69.000 năm trước.[8]

Mô tả

Hộp sọ gấu mèo thông thường (trái) và hộp sọ gấu mèo Cozumel (phải).

Merriam mô tả loài gấu mèo Cozumel nhỏ hơn rõ rệt, cả về hình dáng bên ngoài lẫn hình thù và dễ phân biệt với loài gấu mèo thông thường vì "dải họng đen rộng và đuôi màu vàng vàng, phần sau ngắn nở ra và mũi tròn trịa và răng đặc biệt" của nó.[9] Hàm răng giảm của nó chỉ ra một thời gian dài bị cô lập.[10]

Ngoài kích thước nhỏ hơn và mõm tròn hơn, gấu mèo Cozumel có hình dáng tương tự như gấu mèo thông thường. Bộ lông ở phần trên cơ thể có màu xám đen, thỉnh thoảng có lông đen, trong khi phần dưới và chân có màu xám nhạt. Phần đỉnh đầu không có sắc màu da trâu như phần còn lại của cơ thể và có màu xám hoa râm, tương phản với bộ lông trắng ở mõm và cằm, và với hoa văn "mặt nạ" màu đen xung quanh mắt. Một dòng lông màu xám nâu chạy dọc xuống giữa mõm, nối các mẫu "mặt nạ" ở hai bên. Đuôi màu vàng nhạt, với sáu hoặc bảy vòng màu đen hoặc nâu trở nên mờ hơn ở mặt dưới. Ở con đực, phần gáy có một mảng lông màu cam, tương đối sáng.[8]

Con trưởng thành có tổng chiều dài từ 58 đến 82 cm, bao gồm cả đuôi 23 đến 26 cm, và nặng từ 3 đến 4 kg. Điều này đại diện cho một ví dụ về chứng lùn không đáng kể, và các loài động vật này trung bình ngắn hơn khoảng 18% và nhẹ hơn 45% so với phân loài của gấu mèo thông thường được tìm thấy trên đất liền địa phương, P. lotor shufeldti. Gấu mèo Cozumel cũng có biểu hiện dị hình giới tính, với con đực nặng hơn con cái khoảng 20%.[8]

Phân bố và sinh cảnh

Theo sách đỏ IUCN, loài này được coi là loài cực kỳ nguy cấp. Trên thực tế, họ báo cáo rằng chỉ còn khoảng 250–300 cá thể trên hành tinh.[11] Những con gấu mèo này rất nguy cấp vì phạm vi địa lý nhỏ của chúng. Nó là loài đặc hữu của Đảo Cozumel, một hòn đảo có diện tích khoảng 478 km², nằm ngoài khơi bờ biển phía đông của Bán đảo Yucatan ở Mexico.[5] Đảo Cozumel hỗ trợ một số loài ăn thịt khác, bao gồm coati lùn (Nasua narica nelsoni) và cáo xám lùn (Urocyon sp.).[12][13] Các đảo thường thiếu động vật có vú trên cạn, đặc biệt là động vật ăn thịt, khiến gấu mèo Cozumel và những loài khác trở nên độc đáo.[14]

Trên đảo, gấu mèo sinh sống ở nhiều loại môi trường sống, nhưng chủ yếu giới hạn ở các khu rừng ngập mặn và đất ngập nước cát ở mũi phía tây bắc của đảo.[5][13] Tuy nhiên, nó cũng bị bắt trong các khu rừng bán thường xanh và các vùng đất nông nghiệp xung quanh các môi trường sống ưa thích này,[8][12] và trong công viên sinh thái Punta Sur ở cuối phía nam của hòn đảo.[13]

Hành vi

Tương đối ít thông tin về kích thước nhóm của gấu mèo. Chúng chủ yếu là động vật sống về đêm và sống đơn độc, nhưng đôi khi có thể tạo thành các nhóm gia đình có thể bao gồm mẹ và các con non.[13]

Gấu mèo sống với mật độ khoảng 17-27 con/km²,[12] và cư trú trong phạm vi nhà trung bình khoảng 67 ha.[15] Tuy nhiên, các cá thể dường như không bảo vệ lãnh thổ ở bất kỳ mức độ nào, và họ hàng gần của chúng, loài gấu mèo thông thường, có thể tồn tại ở mật độ rất cao khi thức ăn dồi dào.[16] Mặc dù chưa có nghiên cứu chi tiết về thói quen sinh sản của chúng, nhưng con cái dường như sinh con chủ yếu từ tháng 11 đến tháng 1, có thể là lứa thứ hai trong những tháng mùa hè..[8]

Cozumel raccoon
Gấu mèo Cozumel

Chế độ ăn

Đặc điểm môi trường sống của gấu mèo Cozumel một phần lớn là do loại thức ăn mà chúng tiêu thụ. Chế độ ăn tổng thể của chúng bao gồm cua, trái cây, ếch, thằn lằn và côn trùng.[5] Chúng là một loài động vật ăn tạp chung, nhưng cua chiếm hơn 50% khẩu phần ăn của chúng.[5] Chế độ ăn của chúng hơi theo mùa.[5] Trong mùa mưa, trái cây và thảm thực vật phong phú hơn và trở thành một phần lớn trong khẩu phần ăn của gấu mèo. Sau đó vào mùa khô, chúng bắt đầu tiêu thụ nhiều cua, côn trùng, thằn lằn, v.v ... Cua chiếm hơn một nửa lượng thức ăn mà chúng ăn có thể ảnh hưởng đến sự phân bố hạn chế của chúng: chúng ở gần vùng nước nơi có nhiều cua.

Chuyên môn hình thái học

Một số lượng lớn các nghiên cứu đã được thực hiện để xác định xem gấu mèo Cozumel có thực sự là một loài riêng biệt khác với gấu mèo thông thường hay không. Cuaron và cộng sự. (2004) báo cáo rằng nghiên cứu được thực hiện bởi nhiều học giả khác nhau kết luận rằng chúng là hai loài riêng biệt.[13] Kích thước cơ thể và kích thước sọ đã được báo cáo là nhỏ hơn ở P. pygmaeus, do đó có tên là lùn. Những khác biệt về hình thái bao gồm dải họng đen rộng, đuôi vàng và răng bị giảm; "những đặc điểm này và các đặc điểm khác chỉ ra một thời gian dài bị cô lập".[13]

Tình trạng bảo tồn

Động vật ăn thịt trên đảo thường tuyệt chủng ngay sau khi con người xuất hiện.[14] Mối nguy hiểm chính đối với gấu mèo Cozumel là sự phát triển của đảo Cozumel do ngành du lịch.[17] Bởi vì gấu mèo chỉ nằm ở một khu vực ven biển nhỏ ở góc tây bắc của hòn đảo - một khu vực được bảo vệ để phát triển - những tác động của việc mất môi trường sống đặc biệt nghiêm trọng.[17] Không có luật bảo vệ gấu mèo và cũng không có đất dành cho chúng.[17]

Các mối đe dọa mới hơn đối với sự tồn tại của chúng đã được nghiên cứu trong những năm gần đây là bệnh tật và ký sinh trùng.[18] Cozumel có một quần thể mèo hoang và chó mèo nhà có thể truyền bệnh cho gấu mèo.[18] Trung bình, có khoảng 2 loài khác nhau hiện diện trong mỗi vật chủ. Đó không phải là sự phong phú tổng thể mà chỉ đơn giản là số lượng loài tuyệt đối được tìm thấy. Một số con gấu mèo bị bắt đã phát triển kháng thể chống lại một số bệnh. Mèo chỉ mới xuất hiện trên đảo do con người mang chúng đến làm thú cưng.[18]

Hành động bảo tồn

Một cách tiếp cận bảo tồn sẽ là giảm thiểu hoặc thậm chí loại bỏ tác động của con người đến các khu rừng ngập mặn, đặc biệt là ở góc tây bắc của đảo.[12] Điều này sẽ dẫn đến việc ngừng phát triển ở khu vực này và thiết lập vùng đất được bảo vệ cho gấu mèo. Vùng đất được thiết lập này sẽ bao gồm môi trường sống quan trọng đối với sự tồn tại của các loài, quan trọng nhất là rừng ngập mặn và rừng bán thường xanh xung quanh.

Một phương pháp khác có thể giúp khôi phục các quần thể là kỹ thuật nuôi nhốt.[17] Nếu chúng sẵn sàng sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt như những con gấu mèo thông thường, nó có thể được sử dụng thành công. Ngoài ra, sự xuất hiện của vật nuôi, đặc biệt là mèo hoang, mang lại nhiều bệnh tật và ký sinh trùng đang có ảnh hưởng đáng kể đến gấu mèo. Phương pháp tốt nhất để giảm những tác động này là loại bỏ càng nhiều mèo hoang càng tốt. Để bất kỳ hành động bảo tồn nào thành công, nhân viên bảo tồn sẽ cần phải tìm cách thỏa hiệp với ngành du lịch để cứu gấu mèo Cozumel.[17]

Glatston cũng kêu gọi các nhà nghiên cứu tiếp tục kiểm tra loài này để đảm bảo rằng nó là một loài riêng biệt với đơn vị phân loại chị em trên đất liền của nó.[17]

Chú thích

  1. ^ a b Wozencraft, W. C. (2005). “Order Carnivora”. Trong Wilson, D. E.; Reeder, D. M. (biên tập). Mammal Species of the World: A Taxonomic and Geographic Reference . Johns Hopkins University Press. tr. 627–628. ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “msw3” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ Cuarón AD, de Grammont PC, Vázquez-Domínguez E, Valenzuela-Galván D, García-Vasco D, Reid F, Helgen K (2008). Procyon pygmaeus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2008. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2008.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  3. ^ a b Helgen, Kristofer M.; Wilson, Don E. (2005). “A Systematic and Zoogeographic Overview of the Raccoons of Mexico and Central America”. Trong Sánchez-Cordero, Víctor; Medellín, Rodrigo A. (biên tập). Contribuciones mastozoológicas en homenaje a Bernardo Villa. Mexico City: Instituto de Ecología of the Universidad Nacional Autónoma de México. tr. 221–236. ISBN 978-970-32-2603-0. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2008.
  4. ^ Zeveloff, Samuel I. (2002). Raccoons: A Natural History. Washington, D. C.: Smithsonian Books. tr. 45. ISBN 978-1-58834-033-7.
  5. ^ a b c d e f McFadden KW, Sambrotto RN, Medellín RA, Gompper ME (2006). “Feeding habits of endangered pygmy raccoons (Procyon pygmaeus) based on stable isotope and fecal analyses”. Journal of Mammalogy. 87 (3): 501–509. doi:10.1644/05-MAMM-A-150R1.1.
  6. ^ Helgen, Kristofer M.; Wilson, Don E. (tháng 1 năm 2003). “Taxonomic status and conservation relevance of the raccoons (Procyon spp.) of the West Indies” (PDF). Journal of Zoology. 259 (1): 69–76. doi:10.1017/S0952836902002972. ISSN 0952-8369.
  7. ^ Hamblin, NL (1984). Animal Use by the Cozumel Maya. Tucson: The University of Arizona Press.
  8. ^ a b c d e de Villa-Meza, A.; và đồng nghiệp (2011). Procyon pygmaeus (Carnivora: Procyonidae)”. Mammalian Species. 43 (1): 87–93. doi:10.1644/877.1.
  9. ^ Merriam, CH (1901). “Six new mammals from Cozumel Island, Yucatan”. Proceedings of the Biological Society of Washington. 14: 99–104.
  10. ^ Goldman, E.A.; Jackson, Hartley H. T. (1950). “Raccoons of North and Middle America” (PDF). North American Fauna. 60: 1–153. doi:10.3996/nafa.60.0001.
  11. ^ McFadden, K. W. (2004). “The ecology, evolution, and natural history of the endangered carnivores of Cozumel Island, Mexico” (PhD Dissertation). New York: Columbia University. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  12. ^ a b c d McFadden, Katherine W.; García-Vasco, Denise; Cuarón, Alfredo D.; Valenzuela-Galván, David; Medellín, Rodrigo A.; Gompper, Matthew E. (2009). “Vulnerable island carnivores: the endangered endemic dwarf procyonids from Cozumel Island”. Biodiversity Conservation. 19 (2): 491–502. doi:10.1007/s10531-009-9701-8.
  13. ^ a b c d e f Cuaron, A.D.; Martinez-Morales M.A.; McFadden K.W.; Valenzuela D.; Gompper M.E. (2004). “The status of dwarf carnivores on Cozumel Island, Mexico”. Biodiversity Conservation. 13 (2): 317–331. CiteSeerX 10.1.1.511.2040. doi:10.1023/B:BIOC.0000006501.80472.cc.
  14. ^ a b Alcover, J.A.; M. McMinn (1994). “Predators of vertebrates on islands”. BioScience. 44 (1): 12–18. doi:10.2307/1312401. JSTOR 1312401.
  15. ^ Cuarón, A. D.; và đồng nghiệp (2009). “Conservation of the endemic dwarf carnivores of Cozumel Island, Mexico” (PDF). Small Carnivore Conservation. 41 (1): 15–21. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2012.
  16. ^ Lotze, J.-H.; Anderson, S. (1979). “Procyon lotor”. Mammalian Species. 119 (119): 1–8. doi:10.2307/3503959. JSTOR 3503959.
  17. ^ a b c d e f Glatston, A.R. biên tập (1994). “The red panda, olingos, coatis, raccoons, and their relatives: status survey and conservation action plan for procyonids and ailurids”. Gland, Switzerland: IUCN (World Conservation Union).
  18. ^ a b c McFadden, K.W.; Wade, S.E.; Dubovi, E.J. & Gompper, M.E. (2005). “A serology and fecal parsitology survey of the critically endangered pygmy raccoon (Procyon pygmaeus)”. Journal of Wildlife Diseases. 41 (3): 615–617. doi:10.7589/0090-3558-41.3.615. PMID 16244074.

Tham khảo