Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lutjanus analis”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 40: Dòng 40:


Số gai ở vây lưng: 10–11; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7–8; Số tia vây ở vây ngực: 15–17; Số vảy [[đường bên]]: 47–51.<ref name="fao" />
Số gai ở vây lưng: 10–11; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7–8; Số tia vây ở vây ngực: 15–17; Số vảy [[đường bên]]: 47–51.<ref name="fao" />

== Sinh thái ==

=== Thức ăn ===
Thức ăn của ''L. cyanopterus'' bao gồm cá nhỏ, [[chân đầu]], [[chân bụng]] và [[giáp xác]].<ref name="fb" /> Một nghiên cứu tại [[quần đảo Abrolhos]] ([[Brasil]]) cho thấy cá con <34 cm (chiều dài tổng) chủ yếu ăn động vật giáp xác, cá trưởng thành >50 cm ăn nhiều cá hơn (chủ yếu là các loài thuộc [[bộ Cá chình]]), những cá thể trong 34–50 cm có chế độ ăn đa dạng.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Freitas|first=Matheus Oliveira|last2=Abilhoa|first2=Vinícius|last3=Costa e Silva|first3=Gisleine Hoffmann da|year=2011|title=Feeding ecology of ''Lutjanus analis'' (Teleostei: Lutjanidae) from Abrolhos Bank, Eastern Brazil|url=https://www.researchgate.net/publication/267399166_Feeding_ecology_of_Lutjanus_analis_Teleostei_Lutjanidae_from_Abrolhos_Bank_Eastern_Brazil.pdf|journal=Neotropical Ichthyology|language=en|volume=9|pages=411–418|doi=10.1590/S1679-62252011005000022|issn=1679-6225}}</ref>


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==

Phiên bản lúc 09:08, ngày 21 tháng 7 năm 2023

Lutjanus analis
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Lutjaniformes
Họ (familia)Lutjanidae
Chi (genus)Lutjanus
Loài (species)L. analis
Danh pháp hai phần
Lutjanus analis
(Cuvier, 1828)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
    • Mesoprion analis Cuvier, 1828
    • Mesoprion sobra Cuvier, 1828
    • Mesoprion isodon Cuvier, 1828
    • Mesoprion rosaceus Poey, 1871

Lutjanus analis là một loài cá biển thuộc chi Lutjanus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828.

Từ nguyên

Tính từ định danh analis trong tiếng Latinh có nghĩa là “ở hậu môn” hàm ý đề cập đến vây hậu môn màu hồng đỏ của loài cá này.[2]

Phân bố và môi trường sống

L. analis có phân bố rộng rãi dọc Tây Đại Tây Dương, từ Bermuda và bang Massachusetts[3] dọc theo bờ đông Hoa Kỳ, băng qua vịnh México (Florida Keys ngược về phía bắc đến Tampa, Florida, ngoài khơi Mississippi, và từ Corpus Christi, Texas dọc theo México) và khắp biển Caribe, dọc theo bờ biển Nam Mỹ đến bang Santa Catarina (Brasil).[1]

L. analis trưởng thành sống ở khu vực thềm lục địa cũng như vùng nước trong quanh các đảo, luôn gần các mỏm đá và rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu ít nhất là 95 m, trong khi cá con thường xuất hiện ở nền đáy cát và thảm cỏ biển Thalassia.[3]

Loài bị đe dọa

Các đàn sinh sản của L. analis là mục tiêu của ngư dân và nghề đánh bắt thương mại, bên cạnh đó là việc cá con bị thu hoạch ở một số vùng làm gia tăng của nạn đánh bắt quá mức ở loài này, như đã được báo cáo ở BrasilColombia. Ở Cuba, kích thước của các đàn sinh sản đã giảm, nhưng khá hơn là một số đàn nằm trong các khu bảo tồn biển. L. analis cũng bị nhắm đến bởi những người câu cá giải trí dọc theo bờ đông bang Florida. Do đó, L. analis được xếp vào nhóm Loài sắp bị đe dọa.[1]

Mô tả

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. cyanopterus là 94 cm,[3] thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 50 cm.[4]

Lưng và hai bên thân trên có màu xanh ô liu, trắng phớt đỏ ở thân dưới và bụng. Một đốm đen ở lưng sau, ngay trên đường bên và dưới các tia vây lưng trước (đốm này khá lớn ở cá con, nhỏ dần khi chúng lớn lên). Một cặp sọc xanh lam trên má, sọc trên tiếp tục ngược ra sau mắt đến rìa trên nắp mang. Các vây hầu hết màu đỏ, đặc biệt là vây hậu môn và vây bụng, cũng như nửa dưới vây đuôi; vây đuôi có rìa sau màu đen. Kiểu hình vạch sọc ở hai bên thân thường xuất hiện khi chúng nghỉ ngơi.[4]

Số gai ở vây lưng: 10–11; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7–8; Số tia vây ở vây ngực: 15–17; Số vảy đường bên: 47–51.[4]

Sinh thái

Thức ăn

Thức ăn của L. cyanopterus bao gồm cá nhỏ, chân đầu, chân bụnggiáp xác.[3] Một nghiên cứu tại quần đảo Abrolhos (Brasil) cho thấy cá con <34 cm (chiều dài tổng) chủ yếu ăn động vật giáp xác, cá trưởng thành >50 cm ăn nhiều cá hơn (chủ yếu là các loài thuộc bộ Cá chình), những cá thể trong 34–50 cm có chế độ ăn đa dạng.[5]

Tham khảo

  1. ^ a b c Lindeman, K.; Anderson, W.; Carpenter, K. E.; Claro, R.; Cowan, J.; Padovani-Ferreira, B.; Rocha, L. A.; Sedberry, G. & Zapp-Sluis, M. (2019) [2016]. Lutjanus analis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T12416A161245983. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Lutjaniformes: Families Haemulidae and Lutjanidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ a b c d Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Lutjanus analis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  4. ^ a b c W. D. Anderson (2003). “Lutjanidae” (PDF). Trong Kent E. Carpenter (biên tập). The living marine resources of the Western Central Atlantic. Volume 3. Roma: FAO. tr. 1489. ISBN 92-5-104827-4.
  5. ^ Freitas, Matheus Oliveira; Abilhoa, Vinícius; Costa e Silva, Gisleine Hoffmann da (2011). “Feeding ecology of Lutjanus analis (Teleostei: Lutjanidae) from Abrolhos Bank, Eastern Brazil” (PDF). Neotropical Ichthyology (bằng tiếng Anh). 9: 411–418. doi:10.1590/S1679-62252011005000022. ISSN 1679-6225.