Án lệ 21/2018/AL

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Án lệ 21/2018/AL
Tòa ánHội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Tên đầy đủÁn lệ số 21/2018/AL về lỗi và thiệt hại trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê tài sản
Tranh tụng18 tháng 1 năm 2012
Phán quyết20 tháng 5 năm 2016
Trích dẫnQuyết định giám đốc thẩm 08/2016/KDTM-GĐT;
Quyết định công bố án lệ 269/QĐ-CA
Lịch sử vụ việc
Trước đóSơ thẩm: không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi bị đơn phải thanh toán giá trị còn lại của hợp đồng và tiền lãi chậm trả; bị đơn thắng kiện.
Phúc thẩm: tuyên không chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn do kháng cáo quá hạn.
Tiếp theoChánh án Tối cao kháng nghị, Hội đồng Thẩm phán tối cao giám đốc thẩm
Kết luận cuối cùng
Căn cứ thực tế, hợp đồng cho thuê tài sản có thời hạn, không có thỏa thuận về điều kiện chấm dứt hợp đồng. Bên thuê chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nhưng không được bên cho thuê đồng ý. Thời gian từ khi bên thuê có văn bản thông báo đến khi chấm dứt hợp đồng quá ngắn dẫn đến bên cho thuê không thể có hợp đồng khác thay thế ngay trong thời gian còn lại của hợp đồng thuê. Trường hợp này, phải xác định bên thuê có lỗi và phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại gây ra cho bên cho thuê. Thiệt hại thực tế cần xem xét là khoản tiền cho thuê phương tiện trong thời gian còn lại của hợp đồng. Giao vụ án lại cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo nhận định trên.

Án lệ 21/2018/AL về lỗi và thiệt hại trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê tài sản là án lệ công bố thứ 21 thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua, Chánh án Tối cao Nguyễn Hòa Bình ra quyết định công bố ngày 6 tháng 11 năm 2018,[1] và có hiệu lực cho tòa án các cấp trong cả nước nghiên cứu, áp dụng trong xét xử từ ngày 3 tháng 12 năm 2018.[2] Án lệ 21 dựa trên nguồn là Quyết định giám đốc thẩm số 08 ngày 20 tháng 5 năm 2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng cho thuê tài sản tại tỉnh Quảng Ninh, nội dung xoay quanh điều kiện chấm dứt hợp đồng; chấm dứt hợp đồng trước thời hạn; bồi thường thiệt hại;[3] thiệt hại thực tế; và lỗi.[4]

Trong vụ việc, nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn D và bị đơn là Công ty cổ phần C, đều kinh doanh lĩnh vực liên quan đến vận tải đường biển ở tỉnh Quảng Ninh, xoay quanh hải cảng vịnh Bắc Bộ. Hai bên ký kết hợp đồng cho thuê tài sản là đầu máy lái, kéo, dắt tàu biển ra vào cảng biển trong thời gian nhất định. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bị đơn đã kết thúc sớm thời hiệu, đơn phương chấm dứt hợp đồng,[5] dẫn tới không thương lượng thành công và nguyên đơn yêu cầu thanh toán chi phí phần còn lại của hợp đồng mặc dù đó là thời gian mà bị đơn không sử dụng thiết bị. Vụ án cùng được chọn làm nguồn án lệ để xem xét về lỗi và thiệt hại trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê tài sản.

Tóm lược vụ án[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2006, Công ty trách nhiệm hữu hạn D (gọi tắt: Công ty D) kinh doanh lĩnh vực cho thuê đầu máy lái và kéo, dắt, dẫn tàu biển,[Ghi chú 1] là bên cho thuê hàng hóa,[6] đã ký kết hợp đồng cho thuê đầu máy vỏ sắt sử dụng dầu diesel, loại kéo đẩy công suất 135 CV[Ghi chú 2] đối với bên thuê là Công ty cổ phần C (về sau là Tổng công ty cổ phần Indevco, gọi tắt: Indevco). Hợp đồng được ký kết có thỏa thuận về thời hạn cho thuê, cách thức vận hành, thanh toán. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Indevco thanh toán một phần chi phí và đột ngột đơn phương chấm dứt thuê thiết bị, kết thúc hợp đồng trong thời hạn.

Mâu thuẫn xảy ra tập trung vào việc yêu cầu thanh toán tiền thuê tài sản trong thời gian còn lại của hợp đồng; nhưng không thể giải quyết sau nhiều lần thương lượng. Từ đây, nguyên đơn Công ty D đã đệ đơn khởi kiện bị đơn Indevco lên Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh về khoản tiền thỏa thuận này.

Xét xử các giai đoạn[sửa | sửa mã nguồn]

Trình bày của các bên[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyên đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 18 tháng 3 năm 2007, Công ty D đã đệ đơn khởi kiện Indevco. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã thụ lý vụ án và giải quyết tranh chấp. Tại đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, Công ty D trình bày rằng:[7] ngày 10 tháng 4 năm 2006, nguyên đơn đã ký hợp đồng về việc thuê đầu máy lai, dắt với Indevco. Theo hợp đồng, nguyên đơn cho bị đơn thuê hai đầu máy vỏ thép loại kéo và đẩy công suất 135 CV, biển kiểm soát số NB2010 và NB2172; đồng thời, nhận lai dắt, đẩy kéo tàu của bị đơn ra vào cảng lấy hàng tại Cảng 10/10 (Cẩm Phả) và cảng Khe Dây Quảng Ninh; đơn giá thuê bao gồm cả thuế giá trị gia tăng là 50 triệu đồng/tháng cho một đầu máy; chi phí toàn bộ nhiên liệu cho đầu máy nguyên đơn trả cho bị đơn theo định mức là 17 lít dầu dầu diesel mỗi giờ nổ máy trên mỗi máy công suất 135 CV và 0,23 lít dầu nhờn bôi trơn mỗi giờ với mỗi máy công suất, bên cạnh đó, giá nhiên liệu sẽ được hai bên tính tại thời điểm thanh toán và các khoản phát sinh hai đầu bến, nếu có. Nguyên đơn có trách nhiệm bố trí nhân lực, chức danh trên phương tiện gồm ba người là thuyền trưởng, máy trưởng, và thủy thủ; phải chi trả toàn bộ tiền lương cho công nhân trên phương tiện. Hợp đồng có hiệu lực từ ngày ký đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2006.[8]

Ngày 17 tháng 8 năm 2006, Indecvo gửi công văn đề nghị chấm dứt và thanh lý hợp đồng trước thời hạn từ ngày 20 tháng 8.[9] Ngày 18 tháng 8, nguyên đơn đã gửi công văn trả lời, đề nghị Indevco thanh toán dứt điểm số tiền thuê hai đầu máy trong quý II năm 2006 (kèm theo biên bản đối chiếu thanh quyết toán ngày 13 tháng 7) và đề nghị rằng trong trường hợp Indevco không còn nhu cầu thuê thiêt bị kể từ ngày 20 tháng 8 nữa thì đề nghị thanh quyết toán tiền thuê hai đầu máy cho thời gian còn lại của hợp đồng từ ngày 1 tháng 8 đến 31 tháng 12 năm 2006.[10]

Ngày 4 tháng 9, hai bên tiến hành lập biên bản quyết toán tiền thuê đầu máy; theo đó, hai bên cùng xác định tổng số tiền Indevco phải trả tính đến ngày 21 tháng 8 là 511.539.505 đồng. Ngày 16 tháng 1 năm 2007, Indecvo đã thanh toán cho Công ty D số tiền này. Sau đó, bởi nhiều lần thương lượng không thành, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải thanh toán số tiền 403 triệu đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tính từ ngày 21 tháng 8 năm 2006 đến ngày 31 tháng 12 năm 2006 theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện của nguyên đơn rút yêu cầu buộc thanh toán tiền lãi do chậm thanh toán.

Bị đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Trong vụ án, đại diện của bị đơn Indevco trình bày rằng: việc ký kết và thực hiện hợp đồng thuê tài sản với Công ty D như nguyên đơn trình bày. Đến ngày 17 tháng 8 năm 2006, do không còn nhu cầu sử dụng hai đầu máy đã thuê, bị đơn đã có công văn gửi nguyên đơn đề nghị chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn 511.539.505 đồngll và không đồng ý thanh toán cho nguyên đơn khoản 403 triệu đồng vì không đúng thực tế, yêu cầu nguyên đơn tính toán lại. Indevco chỉ chấp nhận hỗ trợ 50% tổng số kê khai nhưng phải đúng và phù hợp.[11]

Phán quyết[sửa | sửa mã nguồn]

Sơ thẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 18 tháng 1 năm 2012, tại trụ sở Khu đô thị Cao Xanh – Hà Khánh B, phường Cao Xanh, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, sau gần năm năm thụ lý vụ án, phiên tòa sơ thẩm được tổ chức. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã quyết định quyết định: không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi bị đơn phải thanh toán giá trị còn lại của hợp đồng thuê tài sản năm 2006 về số tiền là 303 triệu đồng và tiền lãi chậm trả là 157,260 triệu đồng; tức bị đơn thắng kiện. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.[12]

Phúc thẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Sau phán quyết sơ thẩm, nguyên đơn không đồng ý vì thua kiện, nên ngày 10 tháng 2 năm 2012, nguyên đơn có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, dấu bưu điện nơi gửi là ngày 25 tháng 2 năm 2012. Ngày 17 tháng 5 năm 2012, tại trụ sở ở ngõ 2 phố Tôn Thất thuyết, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội[Ghi chú 3] ra quyết định không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, với lý do là kháng cáo quá thời hạn quy định.[13][14]

Kháng nghị[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếp tục không đồng ý quyết định của Tòa Phúc thẩm, ngày 7 tháng 6 năm 2012, nguyên đơn có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định phúc thẩm nêu trên. Gần ba năm sau. ngày 4 tháng 5 năm 2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.[15]

Giám đốc thẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 20 tháng 5 năm 2016, với yêu cầu kháng nghị của Chánh án Tối cao và sự nhất trí của Viện Kiểm sát, Hội đồng Thẩm phán tối cao đã mở phiên xét xử giám đốc thẩm tại trụ sở tòa ở số 48 đường Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án nhân dân tối cao.

Nhận định của tòa[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2006, nguyên đơn cho bị đơn thuê hai đầu máy vỏ thép và lai dắt tàu ra vào tại cảng 10/10 và cảng Khe Dây Quảng Ninh, có hiệu lực từ ngày ký đến ngày 31 tháng 12 năm 2006 thông qua hợp đồng đã ký. Trong hợp đồng không có thỏa thuận về điều kiện chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, đến ngày 17 tháng 8 năm 2006, bị đơn gửi văn bản thông báo chấm dứt hợp đồng từ ngày 20 tháng 8 với lý do: không có nhu cầu thuê hai đầu máy. Thời gian bị đơn ra văn bản thông báo đến khi chấm dứt hợp đồng là quá ngắn, đã gây thiệt hại cho nguyên đơn do không thể có được hợp đồng khác thay thế ngay. Lỗi thuộc về bị đơn nên phải chịu trách nhiệm đối với khoản thiệt hại đã gây ra cho nguyên đơn. Thiệt hại thực tế cần xem xét là khoản tiền cho thuê phương tiện trong thời gian còn lại của hợp đồng.

Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Quyết định 08/2016/KDTM-GĐT.[16]

Trong phiên giám đốc thẩm, Hội đồng Thẩm phán có những nhận định về vụ án. Trước khi khởi kiện, nguyên đơn đã có công văn không đề ngày, tháng, chỉ ghi năm 2006, yêu cầu bị đơn thanh toán tiền thuê hai đầu máy từ ngày 21 tháng 8 đến 31 tháng 12 năm 2006 với tổng số tiền là 250 triệu đồng. Bị đơn chỉ đồng ý hỗ trợ chi trả lương công nhân lái tàu, không đồng ý nên ngày 18 tháng 3 năm 2007, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thanh toán số tiền 403 triệu đồng, là số tiền cho thuê hai đầu máy trong thời gian còn lại của hợp đồng. Như vậy, đây có thể xem như là khoản thiệt hại thực tế mà nguyên đơn yêu cầu bồi thường.

Khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý để xét xử sơ thẩm lại, nguyên đơn yêu cầu đòi giá trị còn lại của hợp đồng từ ngày 21 tháng 8 đến ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 403 triệu đồng và tiền lãi. Do bị đơn đã trả được 100 triệu đồng nên còn phải thanh toán tiếp 303 triệu đồng và tiền lãi chậm trả. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng yêu cầu này là không có căn cứ nên không chấp nhận vì cho đây là số tiền giá trị còn lại của hợp đồng chưa được thực hiện. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm còn nhận định do nguyên đơn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nhưng nguyên đơn không yêu cầu nên không xem xét yêu cầu của nguyên đơn là không đúng, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn.[17]

Về đơn kháng cáo: theo biên bản phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn có mặt tại phiên tòa nên phải biết nội dung và quyết định của Tòa án. Ngày 10 tháng 2 năm 2012, nguyên đơn mới có đơn kháng cáo, dấu bưu điện nơi gửi là ngày 25 tháng 2 năm 2012, dấu công văn đến ngày 27 tháng 2 năm 2012 là đã quá hạn theo quy định. Tuy nhiên, nguyên đơn cho rằng lý do kháng cáo quá hạn là do đại diện công ty không nghe rõ chủ tọa tuyên án là không có căn cứ theo quy định.[18] Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo quá hạn là đúng.

Mặc dù quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn của Tòa án cấp phúc thẩm là có căn cứ, nhưng do bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật theo quyết định này, nên cũng cần phải hủy cả quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn nêu trên và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.[19]

Quyết định[sửa | sửa mã nguồn]

Từ nhận định này, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định: hủy quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng cho thuê tài sản giữa nguyên đơn Công ty D với bị đơn Indevco. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.[20][21]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Cho thuê đầu máy kéo, lai, dắt tàu biển là loại hình kinh doanh thường thấy ở khu vực cảng biển, vận tải biển nội địa lẫn quốc tế, thường phụ trách việc dẫn các tàu biển cập bến và xuất phát tại các cảng.
  2. ^ CV (tiếng Pháp: cheval vapeur; tiếng Anh: horse power; tức mã lực) là thuật ngữ công suất xuất phát từ Pháp, một nước chiếm hữu vận tải biển từ thời kỳ đầu cận đại. Một CV tương đương 736 Watt.
  3. ^ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội là tiền thân của Tòa nhân dân cấp cao tại Hà Nội thành lập vào ngày 28 tháng 5 năm 2015 theo Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình, Quyết định số 269/QĐ-CA về việc công bố án lệ năm 2018.
  2. ^ Chánh án Tối cao Nguyễn Hòa Bình, Quyết định 269/QĐ-CA về việc công bố án lệ năm 2018; Điều 2 Quyết định về thời điểm áp dụng xét xử.
  3. ^ Luật Thương mại 2005, Điều 302: Bồi thường thiệt hại.
  4. ^ Án lệ 21/2018/AL 2018, tr. 1.
  5. ^ Bộ luật Dân sự 2005, Điều 426: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự.
  6. ^ Luật Thương mại 2005, Điều 269: Cho thuê hàng hóa.
  7. ^ Bút lục vụ án, Công ty D: Đơn khởi kiện ngày 18 tháng 3 năm 2007.
  8. ^ Bút lục vụ án, Công ty D, Indevco: Hợp đồng kinh tế số 1141/HĐ-CNQN ngày 10 tháng 4 năm 2006.
  9. ^ Indevco, Công văn số 2349 INDEVCO ngày 17 tháng 8 năm 2006.
  10. ^ Công ty trách nhiệm hữu hạn D, Công văn số 59.CVCty ngày 18 tháng 8 năm 2006.
  11. ^ Án lệ 21/2018/AL 2018, tr. 2.
  12. ^ Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2012/KDTM-ST ngày 18 tháng 1 năm 2012.
  13. ^ Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, Quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn số 87/2012/KDTMPT-QĐ ngày 17 tháng 5 năm 2012.
  14. ^ Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Điều 245: Thời hạn kháng cáo.
  15. ^ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình, Quyết định kháng nghị số 29/2015/KN-KDTM ngày 4 tháng 5 năm 2015.
  16. ^ Án lệ 21/2018/AL 2021, tr. 4.
  17. ^ Luật Thương mại 2005, Điều 303: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
  18. ^ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, mục 5 phần I Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 4 tháng 8 năm 2006: Hướng dẫn thi hành một số quy định tại phần mục thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp phúc thẩm.
  19. ^ Án lệ 21/2018/AL 2018, tr. 5.
  20. ^ Bộ luật Tố tụng dân sự 2011, Khoản 1, 2 Điều 299.
  21. ^ Bộ luật Tố tụng dân sự 2011, Khoản 3 Điều 297: Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2020). Án lệ số 21/2018/AL về lỗi và thiệt hại trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê tài sản. Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam.
  • Quốc hội Việt Nam khóa XIII (2015). “Bộ luật Dân sự”. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật.
  • Quốc hội Việt Nam khóa XI (2005). “Bộ luật Dân sự”. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật.
  • Quốc hội Việt Nam khóa XIII (2015). “Bộ luật Tố tụng dân sự”. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật.
  • Quốc hội Việt Nam khóa XI (2003). “Luật Đất đai”. Cổng thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam.
  • Quốc hội Việt Nam khóa XI (2005). “Luật Thương mại”. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]