Tát Cáp Lân

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do NhacNy2412 (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 05:10, ngày 1 tháng 7 năm 2020 (Tạo với bản dịch của trang “萨哈璘”). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)

Tát Cáp Lân (chữ Hán: 薩哈璘, tiếng Mãn: ᠰᠠᡥᠠᠯᡳᠶᠠᠨ, chuyển tả: Sahaliyan[1]; 19 tháng 6 năm 1604 - 11 tháng 6 năm 1636), còn được dịch là Tát Cáp Liên (薩哈連, Sakhalian) hoặc Tát Cáp Liêm (薩哈廉, Sahalan), Ái Tân Giác La, là một Thân vương, một nhà quân sự thời kỳ đầu của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.

Cuộc đời

Tát Cáp Lân sinh vào giờ Mão, ngày 23 tháng 5 (âm lịch), năm Minh Vạn Lịch thứ 32 (1604), trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là cháu nội của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, con trai thứ ba của Lễ Liệt Thân vương Đại Thiện. Mẹ ông là Kế Phúc tấn Nạp Lạt thị, con gái của Diệp Hách Bối lặc Bố Trại. 19-16 tháng 6 Ông từ rất sớm đã được sơ phong Thai cát.

Năm Thiên Mệnh thứ 10 (1625), ông đem quân viện trợ Khoa Nhĩ Thấm đang bị bao vây bởi Lâm Đan hãn của Sát Cáp Nhĩ.

Năm thứ 11 (1626), ông theo cha mình là Đại Thiện chinh phạt các bộ Khách Nhĩ Khác Ba Lâm bộ, Trát Lỗ Đặc bộ, nhờ chiến công mà được phong làm Bối lặc.

Năm Thiên Thông nguyên niên (1627), theo Hoàng Thái Cực phạt Minh, ông chặn đánh lương thực đang vận chuyển ở Tháp Sơn, đánh bại hơn hai vạn quân Minh.

Đại Thiện xin thu quân về triều, ông và Nhạc Thác chủ trưởng tiến thủ, đánh hạ Tuân Hóa, Thông Châu, Vĩnh BìnhHương Hà. Ông cùng Tế Nhĩ Cáp Lãng đóng quân trú thủ Vĩnh Bình, sau đó do Bối lặc A Mẫn thay thế ông ở lại đóng quân.

Năm thứ 5 (1631), Lục bộ được thiết lập, ông chưởng quản Lễ bộ.

Năm thứ 6 (1632), ông đem quân tấn công Quy Hóa thành.

Năm thứ 7 (1633), tháng 6, Hoàng Thái Cực trưng cầu ý kiến của các đại thần về việc đánh Minh triều, Triều Tiên, Sát Cáp Nhĩ, nên đánh địa phương nào trước, chủ trương hòa hoãn với Triều TiênSát Cáp Nhĩ, tập trung đánh nhà Minh.

Năm thứ 8 (1634), ông cùng Đa Nhĩ Cổn nghênh đón hàng tướng Thượng Khả Hỉ, chiêu an hơn 3.800 người từ hai đảo Quảng Lộc (广鹿岛, Guanglu Island) và Trường Sơn (小长山岛Xiaochangshan Island) thuộc Đại Liên. Sau đó, ông đem quân đi đánh Đại Châu, Quách Huyện,Đại Đồng.

Năm thứ 9 (1635), ông và Đa Nhĩ Cổn, Nhạc Thác, Hào Cách và những người khác đã thu hàng con trai của Lâm Đan hãn là Ngạch Nhĩ Khắc Khổng Quả Nhĩ. Ông cùng Đa Nhĩ Cổn và Hào Cách tấn công Sơn Tây.

Năm Sùng Đức nguyên niên (1636), tháng đầu tiên, ông ốm nặng và Hoàng Thái Cực đã lệnh cho Hy Phúc [2] đến thăm, tháng 5 thì ông qua đời. Hoàng Thái Cực khóc thương, khen ngợi Tát Cáp Lân thấu đáo mẫn tiệp, thông qua tiếng Mãn, Hán, Mông, là người đa tài, truy phong ông làm Dĩnh Thân vương. Năm Khang Hi thứ 10 (1671), ông được truy thụy "Nghị", trở thành Hòa Thạc Dĩnh Nghị Thân vương (和碩穎毅親王) .

Gia quyến

Thê thiếp

  • Đích thê: Nạp Lạt thị (纳喇氏), con gái của Ô Lạp Bối lặc Bố Chiếm Thái.

Hậu duệ

Con trai

  1. Adali
  2. Lekhdehun
  3. Duran (ân phong Bối lặc, sau hàng Trấn quốc công).

Chú thích

  1. ^ Mãn ngữ nghĩa là「Đen」
  2. ^ Hy Phúc (希福, tiếng Mãn: ᡥᡳᡶᡝ, chuyển tả: Hife), Hách Xá Lý thị, khai quốc công thần của nhà Thanh, tinh thông Mãn - Mông - Hán, được tứ hào "Ba Khắc Thập". Ông là em trai của Thạc Sắc - thân phụ của Sách Ni.

Tham khảo