Cephalopholis fulva

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cephalopholis fulva
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Epinephelinae
Chi (genus)Cephalopholis
Loài (species)C. fulva
Danh pháp hai phần
Cephalopholis fulva
(Linnaeus, 1758)
Danh pháp đồng nghĩa

Cephalopholis fulva là một loài cá biển thuộc chi Cephalopholis trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1758.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh trong tiếng Latinh có nghĩa là "có màu vàng nâu", hàm ý đề cập đến màu nâu cam hoặc màu vàng, hai kiểu màu chính của loài cá này tùy theo độ sâu mà chúng sống.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ bang South Carolina (Hoa Kỳ) cũng như Bermuda ngoài khơi xa, C. fulva được phân bố dọc theo bờ đông Hoa Kỳ đến khắp vùng vịnh Méxicobiển Caribe, dọc theo bờ biển Nam Mỹ (trừ khu vực cửa sông Amazon) trải dài đến BrasilUruguay, bao gồm quần đảo Fernando de Noronha, São Pedro và São Paulo, Trindade và Martin Vaz ở ngoài khơi.[3][4]

C. fulva ưa sống trên các rạn san hô ở vùng nước trong, độ sâu ít nhất là 70 m.[5]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Kiểu hình hai màu sẫm-trắng

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở C. fulva là 44 cm.[5]

Có 4 kiểu hình được được ghi nhận ở C. fulva, gồm màu đỏ hoàn toàn đối với những cá thể ở vùng nước sâu; màu nâu cam và hai sắc (nửa thân trên từ mõm ngược ra cuối vây lưng sẫm đỏ nâu, nửa dưới màu trắng) ở vùng nước cạn; màu vàng tươi được nhìn thấy ở cả hai môi trường; vào ban đêm, C. fulva chuyển sang màu trắng với các vệt sọc dọc. Tất cả kiểu hình kể trên đều được phủ đầy các chấm nhỏ màu xanh óng, nhưng các chấm này ở kiểu màu vàng chỉ tập trung chủ yếu ở phần đầu và thân trước. Ngoài ra còn có 2 đốm đen trên chóp cuống đuôi và 2 đốm tương tự ở hàm dưới.[6]

Cá con có thể mang kiểu hình hai sắc hoặc vàng hoàn toàn với một đốm trắng ở giữa lưng và 2 đốm trắng khác ở trên cuống đuôi.[7] Cá đực thời điểm sinh sản có một dải sọc nâu sẫm từ sau gốc vây ngực kéo dài đến vây đuôi, viền vây lưng mềm màu đen và một đốm trắng ngay giữa gốc vây đuôi.[6]

Brasil, một vài cá thể C. fulva được ghi nhận là có kiểu hình bất thường, được gọi là kiểu hình hắc tố. Vùng màu tối có thể xuất hiện ở thân sau hoặc quanh phần đầu.[8][9]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 14–16; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 17–19; Số vảy đường bên: 46–54.[6]

Sinh học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. fulva là những loài cá nhỏ hơn và động vật giáp xác. C. fulva có thể bơi theo cá lịchcá chình rắn đang săn mồi để bắt những sinh vật thoát khỏi nơi ẩn náu.[6]

Tuổi thọ lớn nhất được biết đến ở C. fulva là 25 năm tuổi.[10] Là loài lưỡng tính tiền nữ, C. fulva cái thuần thục sinh dục khi đạt đến chiều dài cơ thể khoảng 16 cm và bắt đầu chuyển đổi giới tính khi dài 20 cm.[6]

Nhiều cá thể là con lai giữa C. fulvaParanthias furcifer đã được ghi nhận ở ngoài khơi Bermuda.[11] Sự tạp giao giữa hai loài đã được chứng minh dựa vào đặc điểm hình tháiphân tử.[12]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

C. fulva được đánh bắt trong ngành thương mại thủy sản và được bán trong các chợ cá.[6] Từ khoảng năm 1996 đến 2008, loài này ở Brasil đã được xuất khẩu trên thị trường quốc tế, và cá con còn xuất hiện trong ngành thương mại cá cảnh.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Bertoncini, A. A.; Ferreira, B.; Marques, S. & Sadovy, Y. (2018). Cephalopholis fulva. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T132806A46917719. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T132806A46917719.en. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes (part 5)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2022.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Labrus fulvus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2022.
  4. ^ Parenti, Paolo; Randall, John E. (2020). “An annotated checklist of the fishes of the family Serranidae of the world with description of two new related families of fishes”. FishTaxa. 15: 53. ISSN 2458-942X.
  5. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cephalopholis fulva trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  6. ^ a b c d e f Phillip C. Heemstra & John E. Randall (1993). “Cephalopholis” (PDF). Vol.16. Groupers of the world (Family Serranidae, Subfamily Epinephelinae). Roma: FAO. tr. 43–44. ISBN 92-5-103125-8.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ D. Ross Robertson & J. Van Tassell (2019). “Species: Cephalopholis fulva, Coney grouper, the Coney”. Shorefishes of the Greater Caribbean online information system. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2022.
  8. ^ Simon, Thiony; Joyeux, Jean-Christophe; Macieira, Raphael Mariano (2009). “First record of partial melanism in the coney Cephalopholis fulva (Perciformes: Epinephelidae)” (PDF). Brazilian Journal of Oceanography. 57: 145–147. doi:10.1590/s1679-87592009000200007. ISSN 1679-8759.
  9. ^ Simon, Thiony; Joyeux, Jean-Christophe; Gasparini, João Luiz (2011). “Are melanic coney Cephalopholis fulva getting common?” (PDF). Marine Biodiversity Records. 4: e51. doi:10.1017/S1755267211000455. ISSN 1755-2672.
  10. ^ Araujo, Julio Neves de; Martins, Agnaldo Silva (2006). “Age and growth of coney (Cephalopholis fulva), from the central coast of Brazil”. Journal of the Marine Biological Association of the United Kingdom. 86 (1): 187–191. doi:10.1017/S0025315406013026. ISSN 1469-7769.
  11. ^ Smith, C. Lavett (1966). “Menephorus Poey, a serranid genus based on two hybrids of Cephalopholis fulva and Paranthias furcifer, with comments on the systematic placement of Paranthias” (PDF). American Museum Novitates. 2276: 1–11.
  12. ^ Bostrom, Meredith A.; Collette, Bruce B.; Luckhurst, Brian E.; Reece, Kimberly S.; Graves, John E. (2002). “Hybridization between two serranids, the coney (Cephalopholis fulva) and the creole-fish (Paranthias furcifer), at Bermuda” (PDF). Fishery Bulletin. 100 (4): 651–661. ISSN 0090-0656.