Chromis norfolkensis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chromis norfolkensis
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Chromis
Loài (species)C. norfolkensis
Danh pháp hai phần
Chromis norfolkensis
Allen & Allen, 2021

Chromis norfolkensis là một loài cá biển thuộc chi Chromis trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2021.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh norfolkensis được đặt theo tên gọi của đảo Norfolk, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–ensis: hậu tố biểu thị nơi chốn).[1]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Chromis fumea trước đây được cho là bao gồm ba quần thể không liên tục, nhưng đã được xác định đây là những quần thể của 3 loài riêng biệt. Hai quần thể C. fumea trên danh nghĩa đã được mô tả là những loài mới, C. norfolkensis ở Tây Nam Thái Bình DươngChromis sahulensisTây Úc (Đông Nam Ấn Độ Dương), còn C. fumea thực sự chỉ giới hạn ở Tây Thái Bình Dương.[1]

C. norfolkensis được ghi nhận ở khu vực giữa phía nam biển San Hô và phía bắc biển Tasman, bao gồm Nouvelle-Calédoniequần đảo Chesterfield, đảo Norfolk (Úc), đảo Bắc (New Zealand); ngoài ra C. norfolkensis cũng được bắt gặp ở gần Sydney (bang New South Wales, Úc).[1]

C. norfolkensis sống xung quanh nền đáy đá cuội trên đới sườn sốc của rạn san hô viền bờ ở độ sâu khoảng 5–40 m.[1]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

C. norfolkensis có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là gần 10 cm. Loài này có màu nâu nhạt hoặc sẫm, cũng có thể là vàng nhạt (tùy theo từng khu vực) ở nửa thân trên và chuyển ngay sang màu trắng ở nửa dưới. Đốm trắng đặc trưng ở ngay cuối vây lưng. Vây lưng màu nâu, đen dần khi ra đến gần rìa, đặc biệt sẫm đen ở nửa trước của phần vây mềm; màng vây của những tia cuối cùng gần như trong suốt; có dải viền mỏng màu xanh óng ở rìa. Vây hậu môn và vây bụng màu trắng, được viền xanh lam nhạt ở rìa. Vây đuôi trong mờ, có màu trắng xanh với dải đen sẫm dọc theo hai thùy đuôi, được viền màu trắng xanh ở rìa. Vây ngực trong mờ với một đốm đen khá lớn ở gốc.[1][2]

Màu nâu trên lưng của C. fumea nhạt dần rồi chuyển sang màu trắng ở bụng, không nhanh chóng tạo thành hai màu rõ rệt như C. norfolkensis, còn vùng bụng của C. fumea có một sọc vàng tạo bởi hàng vảy thân dưới. Ngoài ra, C. fumea có nhiều lược mang trên cung mang thứ nhất hơn so với C. norfolkensis.[1]

Số gai ở vây lưng: 13–14; Số tia vây ở vây lưng: 12–13; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 10–11; Số tia vây ở vây ngực: 18–20; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 17–19; Số lược mang: 30–34.[1]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. norfolkensis là những loài động vật phù du. Chúng có thể sống đơn độc hoặc theo từng nhóm. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng có độ dính và bám vào nền tổ.[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g Gerald R. Allen; Mark G. Allen (2021). “Two new species of Chromis (Teleostei: Pomacentridae) from northwestern Australia and the southwestern Pacifc Ocean, previously part of C. fumea (Tanaka, 1917)” (PDF). Journal of the Ocean Science Foundation. 38: 78–103.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Bray, D. J. (2021). “Norfolk Chromis, Chromis norfolkensis Allen & Allen 2021”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2022.
  3. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chromis norfolkensis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.