Gomphosus caeruleus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Gomphosus caeruleus
Cá cái
Cá đực
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Gomphosus
Loài (species)G. caeruleus
Danh pháp hai phần
Gomphosus caeruleus
Lacépède, 1801
Danh pháp đồng nghĩa
  • Gomphosus caeruleus klunzingeri Klausewitz, 1962

Gomphosus caeruleus là một loài cá biển thuộc chi Gomphosus trong họ Cá bàng chài. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài, caeruleus, trong tiếng Latinh có nghĩa là "có màu xanh lam", hàm ý đề cập đến màu sắc cơ thể của cá đực, xanh lục lam sẫm[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

G. caeruleus có phạm vi phân bố rộng rãi trên Ấn Độ Dương. Từ Biển Đỏvịnh Oman, loài này được ghi nhận dọc theo bờ biển phía nam bán đảo Ả Rập và trải dài theo bờ biển Đông Phi, bao gồm Madagascar và các đảo quốc, bãi ngầm lân cận; từ vùng biển phía nam Ấn Độ, phạm vi của loài này trải dài về phía nam đến Sri Lanka, Maldives, Chagos; và từ biển Andaman trải dài xuống phía nam đến đảo SumatraJava[1].

G. caeruleus gần những rạn san hô viền bờ và trong các đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 35 m[3].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

G. caeruleus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 32 cm[3]. Các loài Gomphosus đều có chung một đặc điểm là phần mõm dài và nhọn như mỏ chim nhưng mõm của cá con ngắn hơn rất nhiều[4].

Cá cái có nửa dưới đầu và ngực màu trắng; lưng và nửa thân trên có màu nâu sẫm; phần thân còn lại, vây hậu môn và vây đuôi có màu vàng, có những chấm đen trên mỗi vảy; vùng trên của mõm có màu đỏ, kéo dài thành sọc nâu băng qua mắt; vây đuôi hơi bo tròn. Cá đực có màu xanh lục lam sẫm, vây lưng và vây hậu môn có màu xanh lục sáng; vây ngực có dải màu xanh lam nhạt ở rìa; vây đuôi lõm với một dải màu lục sáng hình bán nguyệt ở rìa sau. Cá con màu trắng xám với một dải màu sẫm từ mõm băng qua mắt; thân trên sẫm màu hơn[4][5][6].

G. caeruleus có thể phân biệt với loài họ hàng duy nhất của nó, Gomphosus varius, qua việc thiếu vệt màu vàng lục ở bên thân (chỉ có ở cá đực G. varius)[5]. Cá con và cá cái của hai loài có hình thái hoàn toàn khác nhau[5].

Số gai ở vây lưng: 8; Số tia vây ở vây lưng: 13; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 11; Số tia vây ở vây ngực: 15[4].

Sinh thái và hành vi[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của G. caeruleus là các loài thủy sinh không xương sống nhỏ[3]. Chúng sử dụng cái mõm dài để dò tìm con mồi giữa các rạn san hô[4].

Cũng như G. varius, G. caeruleus cũng được xem là một loài cá cảnh[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c S. Shea; M. Liu; L. A. Rocha (2010). Gomphosus caeruleus. Sách đỏ IUCN. 2010: e.T187569A8570874. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187569A8570874.en. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2021.
  2. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2021.
  3. ^ a b c Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2019). Gomphosus caeruleus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2019.
  4. ^ a b c d John E. Randall (1995). Coastal Fishes of Oman. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 277. ISBN 978-0824818081.
  5. ^ a b c Gomphosus caeruleus Labridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2021.
  6. ^ Giuseppe Mazza. Gomphosus caeruleus. Monaco Nature Encyclopedia. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2021.