Raja Permaisuri Agong

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này nằm trong loạt bài về:
Chính trị và chính phủ
Malaysia
Hiệu kỳ Hoàng gia của Raja Permaisuri Agong

Raja Permaisuri Agong; (Jawi: راج ڤرمايسوري اݢوڠ; tước hiệu đầy đủ: Seri Paduka Baginda Raja Permaisuri Agong; سري ڤدوک بݢيندا راج ڤرمايسوري اݢوڠ, là tước hiệu vợ của Yang di-Pertuan Agong, theo Hiến pháp là nguyên thủ quốc gia Malaysia.

Thuật ngữ và quyền hạn[sửa | sửa mã nguồn]

Vớic tước hiệu  "Yang di-Pertuan Agong" thường được phiên dịch sang tiếng Việt  là "Vua", nên tước hiệu "Raja Permaisuri Agong" thường được dịch là "Hoàng hậu". Permaisuri trong tiếng Malay có nguồn gốc từ Tamil பரமேஸ்வரி (paramēsvari), từ Sanskrit परमेश्वरी (parameśvarī), là 'quý bà tối cao'.

Raja Permaisuri Agong đứng ưu tiên sau chồng mình, Yang di-Pertuan Agong, trong thứ tự ưu tiên của Malaysia.

Địa vị, chức năng, và đặc quyền[sửa | sửa mã nguồn]

Yang di-Pertuan Agong được bầu (de facto xoay vòng)  5 năm trong số 9 tiểu vương cha truyền con nối của các tiểu quốc của Malaysia. Khi tiểu vương đươợc bầu làm Yang di-Pertuan Agong, vợ của tiểu vương lập tức trở thành Raja Permaisuri Agong. Trong thực tế, người giữ chức danh Raja Permaisuri Agong thay đổi 5 năm, mặc dù nó có thể xảy ra sớm hơn do cái chết hoặc sự từ chức của Vua Malaysia.

Giống như nhiều người vợ hoặc chồng của người đứng đầu nhà nước, các Raja Permaisuri Agong đã không quy định vai trò trong Hiến pháp Malaysia. Hoàng hậu đi cùng Vua Malaysia với chức năng chính thức và trong chuyến thăm cấp nhà nước, cũng như chủ nhà trong chuyến thăm của các nguyên thủ quốc gia khác tới. Điều 34 của Hiến pháp Malaysia cấm bất cứ Raja Permaisuri Agong nắm giữ bất kỳ chức vụ nào mang lại thù lao hoặc tham gia vào bất cứ doanh nghiệp thương mại nào. Raja Permaisuri Agong về mặt pháp lý vẫn được hưởng mức sống tương đương với Yang di-Pertuan Agong.

Người từng sở hữu chức vụ Raja Permaisuri Agong có chồng qua đời được hưởng phụ cấp của chính quyền Liên bang. Họ cùng được ưu tiên ngay sau Yang di-Pertuan Agong, Raja Permaisuri Agong, với các tiểu vương, và Yang di-Pertua Negeri của các tiểu bang.

Danh sách Raja Permaisuri Agong[sửa | sửa mã nguồn]

Những phu nhân sau đây từng là Raja Permaisuri Agong:

Thứ tự Tên Tiểu quốc Trị vì Sinh Mất Yang di-Pertuan Agong
1 Tunku Kurshiah binti Almarhum Tunku Besar Burhanuddin Negeri Sembilan 31/8/1957 – 1/4/1960 16/5/1911 2/2/1999 Tuanku Abdul Rahman
2 Raja Jemaah binti Almarhum Raja Ahmad Selangor 14/4/1960 – 1/9/1960 16/5/1911 8/4/1973 Sultan Hisamuddin Alam Shah
3 Tengku Budriah binti Tengku Ismail Perlis 21/9/1960 – 20/9/1965 18/3/1924 28/11/2008 Tuanku Syed Putra
4 Tengku Intan Zaharah binti Tengku Omar Terengganu 21/9/1965 – 20/9/1970 13/4/1928 24/1/2015 Sultan Ismail Nasiruddin Shah
5 Tunku Bahiyah binti Almarhum Tuanku Abdul Rahman Kedah 21/9/1970 – 20/9/1975 24/8/1930 26/8/2003 Tuanku Abdul Halim
6 Tengku Zainab II binti Tengku Muhammad Petra Kelantan 21/9/1975 – 29/3/1979 7/8/ 1917 10/1/1993 Sultan Yahya Petra
7 Tengku Hajjah Afzan binti Tengku Panglima Perang Muhammad Pahang 29/3/1979 – 25/4/1984 4/12/1933 29/6/1988 Sultan Ahmad Shah Al-Mustain Billah
8 Tengku Zanariah binti Tengku Panglima Raja Ahmad Johor 26/4/1984 – 25/41989 5/7/1940 Sultan Iskandar
9 Tuanku Bainun binti Mohamad Ali Perak 26/4/1989 – 25/4/1994 7/11/1932 Sultan Azlan Muhibbuddin Shah
10 Tunku Najihah binti Almarhum Tunku Besar Burhanuddin Negeri Sembilan 26/4/1994 – 25/4/1999 11/9/1924 Tuanku Jaafar
11 Tuanku Siti Aishah binti Abdul Rahman Selangor 26/4/1999 – 21/11/ 2001 18/11/1971 Sultan Salahuddin Abdul Aziz
12 Tuanku Fauziah binti Almarhum Tengku Abdul Rashid Perlis 13/12/2001 – 12/12/2006 6/6/1946 Tuanku Syed Sirajuddin
13 Tuanku Nur Zahirah (Rozita binti Adil Bakeri) Terengganu 13/12/2006 – 12/12/2011 7/12/1973 Tuanku Mizan Zainal Abidin
14 Tuanku Hajah Haminah binti Hamidun Kedah 13/12/2011 – 12/12/2016 15/7/1953 Tuanku Abdul Halim1
15 Tunku Azizah Aminah Maimunah Iskandariah Pahang 31/01/2019 – nay 05/08/1960 Al-Sultan Abdullah
1.^ Tuanku Abdul Halim là Yang di-Pertuan Agong trị vì 2 lần.[1] Sultanah Haminah là vợ thứ hai của ông từ năm 1975.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Bernama (ngày 14 tháng 10 năm 2011). “Kedah Sultan To Be Next King, For The Second Time”. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2011.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]