U-24 (tàu ngầm Đức) (1936)

Tàu ngầm chị em U-9, một chiếc Type IIB tiêu biểu
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-24
Đặt hàng 2 tháng 2, 1935
Xưởng đóng tàu
Số hiệu xưởng đóng tàu 554
Đặt lườn 21 tháng 4, 1936
Hạ thủy 24 tháng 9, 1936
Nhập biên chế 10 tháng 10, 1936
Tình trạng
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IIB
Trọng tải choán nước
  • 279 t (275 tấn Anh) (nổi)
  • 328 t (323 tấn Anh) (chìm)
  • 414 t (407 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 42,7 m (140 ft 1 in) (chung)
  • 28,2 m (92 ft 6 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,08 m (13 ft 5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in)
Mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 410 PS (300 kW; 400 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 13 hải lý trên giờ (24 km/h; 15 mph) (nổi)
  • 7 hải lý trên giờ (13 km/h; 8,1 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 3.100 hải lý (5.700 km; 3.600 mi) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) (nổi)
  • 35–43 hải lý (65–80 km; 40–49 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 150 m (490 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 24 897
Chỉ huy:
  • Trung úy Heinz Buchholz
  • 3 tháng 7 – 30 tháng 9, 1937
  • Trung úy / Đại úy Udo Behrens
  • 8 tháng 10, 1937 – 17 tháng 10, 1939
  • Đại úy Harald Jeppener-Haltenhoff
  • 18 tháng 10 – 29 tháng 11, 1939
  • Trung úy Udo Heilmann
  • 30 tháng 11, 1939 – 21 tháng 8, 1940
  • Trung úy Dietrich Borchert
  • 22 tháng 8, 1940 – 10 tháng 3, 1941
  • Trung úy Helmut Hennig
  • 11 tháng 3 – 31 tháng 7, 1941
  • Trung úy Hardo Rodler von Roithberg
  • 1 tháng 8, 1941 – 18 tháng 4, 1942
  • Trung úy Klaus Petersen
  • 14 tháng 10 – 17 tháng 11, 1942
  • Trung úy Clemens Schöler
  • 18 tháng 11, 1942 – 15 tháng 4, 1943
  • Trung úy / Đại úy Klaus Petersen
  • 16 tháng 4, 1943 – 7 tháng 4, 1944
  • Trung úy Martin Landt-Hayen
  • 7 tháng 4 – tháng 7, 1944
  • Dieter Lenzmann
  • tháng 7 – 25 tháng 8, 1944
Chiến dịch:
  • 19 chuyến tuần tra:
  • 1: 25 – 31 tháng 8 & 2 – 6 tháng 9, 1939
  • 2: 13 – 29 tháng 9, 1939
  • 3:12 – 14 tháng 10, 1939
  • 4: 23 – 29 tháng 10 & 30 tháng 10, 1939
  • 5: 6 – 12 tháng 1, 1940
  • 6: 27 tháng 1 – 9 tháng 2, 1940
  • 7: 14 – 20 tháng 3 & 25 – 26 tháng 3 & 9 – 10 tháng 4, 1940
  • 8: 13 tháng 4 – 5 tháng 5 & 6 – 7 tháng 5, 1940
  • 9: 27 tháng 10 – 9 tháng 11, 1942
  • 10: 24 tháng 11 – 16 tháng 12, 1942
  • 11: 18 tháng 1 – 18 tháng 2, 1943
  • 12: 14 tháng 3 – 3 tháng 4 & 10 – 15 tháng 4, 1943
  • 13: 5 – 26 tháng 6 & 27 – 29 tháng 6, 1943
  • 14: 26 tháng 7 – 25 tháng 8, 1943
  • 15: 30 tháng 9 – 18 tháng 10 & 20 tháng 10 – 4 tháng 11, 1943
  • 16: 15 tháng 1 – 10 tháng 2, 1944
  • 17: 4 tháng 3 – 2 tháng 4, 1944
  • 18: 2 – 30 tháng 5, 1944
  • 19: 11 tháng 7 & 13 tháng 7 – 4 tháng 8, 1944
Chiến thắng:
  • 1 tàu buôn bị đánh chìm
    (961 GRT)
  • 5 tàu chiến bị đánh chìm
    (573 tấn)
  • 1 tàu buôn tổn thất toàn bộ
    (7.886 GRT)
  • 1 tàu buôn hư hại
    (7.661 GRT)

U-24 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-24 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó hoạt động tuần tra tại Bắc Hải trước khi quay lại vai trỏ huấn luyện, rồi chuyển sang hoạt động cùng Chi hạm đội U-boat 30 tại Hắc Hải. U-24 đã thực hiện tổng cộng 19 chuyến tuần tra, đánh chìm một tàu buôn tải trọng 961 tấn và năm tàu chiến[2] trước khi bị đánh chìm tại cảng Constanța, România vào ngày 25 tháng 8, 1944.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp Type IIB là một phiên bản mở rộng của Type IIA trước đó. Chúng có trọng lượng choán nước 279 t (275 tấn Anh) khi nổi và 328 t (323 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[3] Chúng có chiều dài chung 42,70 m (140 ft 1 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 28,20 m (92 ft 6 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in) và mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in).[3]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[3] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12 kn (22 km/h) trên mặt nước và 6,9 kn (12,8 km/h) khi lặn,[3] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[3]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[3]

U-16 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935.[1] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Germaniawerft tại Kiel vào ngày 21 tháng 4, 1936,[1] hạ thủy vào ngày 24 tháng 9, 1936,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 10 tháng 10, 1937[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Heinz Buchholz.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

U-23 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được tám chuyến tuần tra tại khu vực Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh. Đến tháng 5, 1940, nó được rút khỏi nhiệm vụ tác chiến để quay trở lại vai trò huấn luyện.[1]

Khi được điều động sang Chi hạm đội U-boat 30 vào tháng 8, 1942, chiếc tàu ngầm được tháo dỡ, vận chuyển dọc theo sông Danube đến cảng Galați của România. Tại đây nó được lắp ráp lại tại Xưởng tàu Galați và gửi đến Hắc Hải.[4] U-24 đi đến cảng Constanța của România, nơi đặt căn cứ cho đến hết quãng đời hoạt động, và thực hiện thêm mười một chuyến tuần tra chiến tranh tại khu vực Hắc Hải.[1] U-24 đã đánh chìm tổng cộng một tàu buôn đối phương tải trọng 961 gross register tons (GRT) cùng năm tàu chiến, gây tổn thất toàn bộ một tàu buôn 7.886 GRT và gây hư hại một tàu buôn khác.[2]

U-24 bị đánh đắm tại cảng Constanța, România, bên bờ Hắc Hải vào ngày 25 tháng 8, 1944 để tránh bị lọt vào tay lực lượng Đồng Minh. Phía Liên Xô trục vớt con tàu vào đầu năm 1945, nhưng cuối cùng sử dụng nó như một mục tiêu thực hành, và bị tàu ngầm M-120 đánh chìm ngoài khơi Sevastopol vào ngày 26 tháng 5, 1947.[1]

Tóm tắt chiến công[sửa | sửa mã nguồn]

U-24 đã đánh chìm một tàu buôn đối phương tải trọng 961 gross register tons (GRT) cùng năm tàu chiến, gây tổn thất toàn bộ một tàu buôn 7.886 GRT và gây hư hại một tàu buôn khác:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[2]
9 tháng 11, 1939 Carmarthen Coast  Anh Quốc 961 Bị đánh chìm (mìn)
31 tháng 3, 1943 Kreml  Liên Xô 7.661 Hư hại
15 tháng 6, 1943 BTSC Zashitnik (số 26)  Hải quân Liên Xô 441 Bị đánh chìm
30 tháng 7, 1943 Emba  Liên Xô 7.886 Tổn thất toàn bộ
22 tháng 8, 1943 DB-36  Hải quân Liên Xô 16 Bị đánh chìm
22 tháng 8, 1943 DB-37  Hải quân Liên Xô 16 Bị đánh chìm
31 tháng 10, 1943 SKA-088  Hải quân Liên Xô 56 Bị đánh chìm
12 tháng 5, 1944 SKA-0376  Hải quân Liên Xô 44 Bị đánh chìm

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k Helgason, Guðmundur. “The Type IIB U-boat U-24”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  2. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-24”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.
  4. ^ Paterson 2016, tr. 5.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Paterson, Lawrence (2016). “5 - The Black Sea: War in the South 1942-43”. Steel and Ice: The U-boat Battle in the Arctic and Black Sea 1941-45. Naval Press Institute. ISBN 978-1591142584.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Helgason, Guðmundur. “The Type IIB boat U-24”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  • Hofmann, Markus. “U 24”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2015.