USS Arthur L. Bristol (APD-97)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Arthur L. Bristol
Đặt tên theo Arthur L. Bristol
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Charleston, Charleston, South Carolina
Đặt lườn 1 tháng 12, 1943 như là DE-281
Hạ thủy 19 tháng 2, 1944
Người đỡ đầu cô Ellen Wing Getty
Nhập biên chế 25 tháng 6, 1945
Xuất biên chế 29 tháng 4, 1946
Xếp lớp lại APD-97, 17 tháng 7, 1944
Xóa đăng bạ 1 tháng 6, 1964
Số phận Bán để tháo dỡ, 4 tháng 8, 1965
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Crosley
Kiểu tàu Tàu vận chuyển cao tốc
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 300 ft (91,4 m) (mực nước)
  • 306 ft (93,3 m) (chung)
Sườn ngang 36 ft 6 in (11,1 m)
Mớn nước 12 ft 7 in (4 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 12.000 bhp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric, dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện
  • 2 × chân vịt ba cánh đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h)
Tầm xa 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h)
Số tàu con và máy bay mang được 4 × xuồng đổ bộ LCVP
Quân số 12 sĩ quan, 150 binh lính
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 168 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar: Kiểu SL dò tìm mặt biển
  • Kiểu SC và Kiểu SA dò tìm không trung
Vũ khí

USS Arthur L. Bristol (APD-97) là một tàu vận chuyển cao tốc lớp Crosley, nguyên được cải biến từ chiếc DE-281, một tàu hộ tống khu trục lớp Rudderow, và đã phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Phó đô đốc Arthur L. Bristol (1886-1942), người từng tham gia cả các cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất lẫn thứ hai và được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân.[1] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế năm 1946, rồi cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1965.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của lớp Crosley dựa trên việc cải biến lớp tàu hộ tống khu trục Rudderow. Cấu trúc thượng tầng con tàu được mở rộng, đồng thời tháo dỡ bớt vũ khí trang bị để lấy chỗ bố trí nơi nghỉ cho 162 binh lính được vận chuyển cùng khoảng 40 tấn trang bị. Hệ thống động lực tương tự như với các lớp BuckleyRudderow; là kiểu động cơ turbine-điện General Electric, cung cấp điện năng cho mô-tơ điện để dẫn động hai trục chân vịt.[2][3]

Dàn vũ khí được giữ lại bao gồm một khẩu pháo 5 inch (130 mm)/38 cal bố trí một phía trước mũi; ba khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và sáu pháo phòng không Oerlikon 20 mm; vũ khí chống ngầm gồm hai đường ray Mk. 9 để thả mìn sâu.[4][5] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 168 thủy thủ; và con tàu được bố trí tiện nghi để vận chuyển 12 sĩ quan cùng 150 binh lính đổ bộ.[4]

Arthur L. Bristol được đặt lườn như là chiếc DE-281 tại Xưởng hải quân CharlestonCharleston, South Carolina vào ngày 1 tháng 12, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 19 tháng 2, 1944, được đỡ đầu bởi cô Ellen Wing Getty. Đang khi được hoàn thiện, con tàu được xếp lại lớp như một tàu vận chuyển cao tốc vào ngày 17 tháng 7, 1944, mang ký hiệu lườn mới APD-97, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 6, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Morris Beerman.[1][6][7]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc trang bị, Arthur L. Bristol đi đến khu vực vịnh Guantánamo, Cuba để tiến hành việc chạy thử máy huấn luyện từ ngày 13 tháng 7 đến ngày 7 tháng 8, 1945. Con tàu vẫn đang được sửa chữa sau chạy thử máy tại Norfolk, Virginia khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Nó đi đến Trung tâm Huấn luyện Hải quân MiamiMiami, Florida vào đầu tháng 9, và hoạt động như tàu huấn luyện cho sĩ quan hiện dịch ngoài khơi Florida Keys và tại vùng biển Cuba.[1]

Lên đường đi Mobile, Alabama, vào ngày 31 tháng 10, Arthur L. Bristol vào ụ tàu trước khi chuyển đến Căn cứ Sửa chữa Hải quân Algiers tại Algiers, Louisiana, nơi nó được đại tu để chuẩn bị ngừng hoạt động. Con tàu được đưa đến Đội Florida trực thuộc Hạm đội 16, tiền thân của Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương, vào ngày 1 tháng 12, và neo đậu tại sông St. JohnsGreen Cove Springs, Florida.[1]

Arthur L. Bristol được cho xuất biên chế tại Green Cove Springs vào ngày 29 tháng 4, 1946[1][6][7] và không bao giờ được cho hoạt động trở lại. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6, 1964,[1][6][7] và con tàu bị bán cho hãng Boston Metals Corporation tại Baltimore, Maryland vào ngày 4 tháng 8, 1965[1][6][7] để tháo dỡ.

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn: Navsource Naval History[6]
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g Naval Historical Center. Arthur L. Bristol (DE-281). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2022.
  2. ^ Friedman 1982
  3. ^ Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2022.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 300–301.
  5. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  6. ^ a b c d e Yarnall, Paul R. (21 tháng 3 năm 2014). “USS Arthur L. Bristol (APD-97)”. NavSource.org. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2022.
  7. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “USS Arthur L. Bristol (APD 97)”. uboat.net. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]