USS Harry L. Corl (APD-108)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu vận chuyển cao tốc USS Harry L. Corl (APD-108) tại Attu, vào khoảng giữa tháng 9 và tháng 11 năm 1945
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Harry L. Corl
Đặt tên theo Harry L. Corl
Xưởng đóng tàu Xưởng tàu Bethlehem-Hingham, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 19 tháng 1, 1944 như là DE-598
Hạ thủy 1 tháng 3, 1944
Người đỡ đầu bà Marie Mohr
Nhập biên chế 5 tháng 6, 1945
Xuất biên chế 21 tháng 6, 1946
Xếp lớp lại APD-108, 17 tháng 7, 1944
Xóa đăng bạ 15 tháng 1, 1966
Số phận Chuyển cho Hàn Quốc, tháng 5, 1966
Hàn Quốc
Tên gọi ROKS Ah San (PG-82)
Trưng dụng tháng 5, 1966
Xếp lớp lại APD-82 / APD-823 / DE-823
Xóa đăng bạ 1984
Số phận tháo dỡ
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Crosley
Kiểu tàu Tàu vận chuyển cao tốc
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 300 ft (91,4 m) (mực nước)
  • 306 ft (93,3 m) (chung)
Sườn ngang 36 ft 6 in (11,1 m)
Mớn nước 12 ft 7 in (4 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 12.000 bhp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric, dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện
  • 2 × chân vịt ba cánh đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h)
Tầm xa 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h)
Số tàu con và máy bay mang được 4 × xuồng đổ bộ LCVP
Quân số 12 sĩ quan, 150 binh lính
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 168 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar: Kiểu SL dò tìm mặt biển
  • Kiểu SC và Kiểu SA dò tìm không trung
Vũ khí

USS Harry L. Corl (APD-108) là một tàu vận chuyển cao tốc lớp Crosley, nguyên được cải biến từ chiếc DE-598, một tàu hộ tống khu trục lớp Rudderow, và đã phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Harry L. Corl (1914-1942), phi công từng phục vụ cùng không lực hải quân, được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân do hoạt động xuất sắc trong Trận Midway, và đã mất tích trong một phi vụ tại Nam Thái Bình Dương vào ngày 24 tháng 8, 1942.[1] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế năm 1946, rồi được chuyển cho Hàn Quốc năm 1966 và tiếp tục phục vụ như là chiếc ROKS Ah San (PG-82) cho đến năm 1984. Con tàu bị bán để tháo dỡ sau đó.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của lớp Crosley dựa trên việc cải biến lớp tàu hộ tống khu trục Rudderow. Cấu trúc thượng tầng con tàu được mở rộng, đồng thời tháo dỡ bớt vũ khí trang bị để lấy chỗ bố trí nơi nghỉ cho 162 binh lính được vận chuyển cùng khoảng 40 tấn trang bị. Hệ thống động lực tương tự như với các lớp BuckleyRudderow; là kiểu động cơ turbine-điện General Electric, cung cấp điện năng cho mô-tơ điện để dẫn động hai trục chân vịt.[2][3]

Dàn vũ khí được giữ lại bao gồm một khẩu pháo 5 inch (130 mm)/38 cal bố trí một phía trước mũi; ba khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và sáu pháo phòng không Oerlikon 20 mm; vũ khí chống ngầm gồm hai đường ray Mk. 9 để thả mìn sâu.[4][5] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 168 thủy thủ; và con tàu được bố trí tiện nghi để vận chuyển 12 sĩ quan cùng 150 binh lính đổ bộ.[4]

Harry L. Corl được đặt lườn như là chiếc DE-598 tại Xưởng tàu Bethlehem-HinghamHingham, Massachusetts vào ngày 19 tháng 1, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 3, 1944, được đỡ đầu bởi bà Marie Mohr, chị của Thiếu úy Corl. Đang khi được hoàn thiện, con tàu được xếp lại lớp như một tàu vận chuyển cao tốc vào ngày 17 tháng 7, 1944, mang ký hiệu lườn mới APD-108, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 6, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Walter D. Jenckes.[1][6][7]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

USS Harry L. Corl[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển Caribe, Harry L. Corl được chuẩn bị để điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó khởi hành từ Norfolk, Virginia vào ngày 4 tháng 8, 1945 để đi sang vùng bờ Tây, nhưng vẫn còn đang trên đường đi khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, 1945 giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Sau khi đi đến San Diego, California vào ngày 19 tháng 8, nó làm nhiệm vụ vận chuyển nhân sự và tiếp liệu đến các cảng tại khu vực Bắc Thái Bình Dương. Đi đến Seattle, Washington vào ngày 26 tháng 8, nó đón lên tàu hành khách và thiết bị đo đạc thời tiết, rồi đi đến Dutch Harbor, Alaska vào ngày 1 tháng 9 và đến Petropavlovstk-Kamchasky trên bán đảo Kamchatka vào ngày 6 tháng 9, những nơi nó chất dỡ thiết bị để giúp thành lập các trạm quan trắc thời tiết.[1]

Trong hơn hai tháng tiếp theo, Harry L. Corl còn thực thêm ba chuyến đi tiếp liệu từ đảo Attu thuộc quần đảo Aleut đến Petropavlovstk-Kamchasky, rồi đi đến Seattle vào ngày 21 tháng 11. Nó tiến hành một chuyến đi vận chuyển hành khách khác đến các cảng Alaska và quay trở về Seattle vào ngày 11 tháng 1, 1946. Sau đó nó lên đường đi San Francisco, California, rồi rời cảng này vào ngày 26 tháng 2 để đi sang vùng bờ Đông Hoa Kỳ. Được chuẩn bị để ngừng hoạt động, nó đi đến thành phố New York vào ngày 20 tháng 3 trước khi đi đến Green Cove Springs, Florida vào ngày 12 tháng 4. Con tàu được cho xuất biên chế vào ngày 21 tháng 6, 1946 và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương.[1][6][7] Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 1, 1966.[1][6][7]

ROKS Ah San (PG-82)[sửa | sửa mã nguồn]

Harry L. Corl được chuyển cho Cộng hòa Hàn Quốc vào tháng 5, 1966 trong khuôn khổ Chương trình Viện trợ Quân sự, và phục vụ cùng Hải quân Cộng hòa Hàn Quốc như là chiếc pháo hạm ROKS Ah San (PG-82).[1][6][7] Ah San lần lượt được xếp lại lớp thành APD-82 (tàu vận chuyển cao tốc), rồi thành APD-823, và cuối cùng thành DE-823 (tàu hộ tống khu trục). Con tàu ngừng hoạt động năm 1984 và bị tháo dỡ sau đó.[6]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn: Navsource Naval History[6]
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f Naval Historical Center. Harry L. Corl. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ Friedman 1982
  3. ^ Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2022.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 300–301.
  5. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  6. ^ a b c d e f Yarnall, Paul R. (11 tháng 1 năm 2019). “USS Harry L. Corl (APD-108)”. NavSource.org. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2022.
  7. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “USS Harry L. Corl (APD 108)”. uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]