USS Hunter Marshall (APD-112)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Hunter Marshall
Đặt tên theo Hunter Marshall III
Trúng thầu [1]
Xưởng đóng tàu Xưởng tàu Bethlehem-Hingham, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 9 tháng 3, 1945[1] như là DE-602
Hạ thủy 5 tháng 5, 1945
Người đỡ đầu bà Hunter Marshall
Nhập biên chế 17 tháng 7, 1945
Xuất biên chế 30 tháng 5, 1946
Xếp lớp lại APD-112, 17 tháng 7, 1945
Xóa đăng bạ 1 tháng 6, 1960
Số phận Chuyển cho Ecuador, tháng 7, 1961, để sử dụng như trạm phát điện nổi
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Crosley
Kiểu tàu Tàu vận chuyển cao tốc
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 300 ft (91,4 m) (mực nước)
  • 306 ft (93,3 m) (chung)
Sườn ngang 36 ft 6 in (11,1 m)
Mớn nước 12 ft 7 in (4 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 12.000 bhp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric, dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện
  • 2 × chân vịt ba cánh đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h)
Tầm xa 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h)
Số tàu con và máy bay mang được 4 × xuồng đổ bộ LCVP
Quân số 12 sĩ quan, 150 binh lính
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 168 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar: Kiểu SL dò tìm mặt biển
  • Kiểu SC và Kiểu SA dò tìm không trung
Vũ khí

USS Hunter Marshall (APD-112) là một tàu vận chuyển cao tốc lớp Crosley, nguyên được cải biến từ chiếc DE-602, một tàu hộ tống khu trục lớp Rudderow, và đã phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Hunter Marshall III (1917-1942), người được biệt phái cùng đội bảo vệ vũ trang hải quân cho tàu vận tải Lục quân USAT Merrimack, đã mất tích vào ngày 9 tháng 6, 1943 khi Merrimack đắm do trúng ngư lôi từ tàu ngầm Đức U-68 tại vùng biển Caribe và được truy tặng Huân chương Ngôi sao Bạc.[2] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế năm 1946, rồi được chuyển cho Ecuador vào tháng 7, 1961, để sử dụng như trạm phát điện nổi. Số phận sau cùng của con tàu không rõ.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của lớp Crosley dựa trên việc cải biến lớp tàu hộ tống khu trục Rudderow. Cấu trúc thượng tầng con tàu được mở rộng, đồng thời tháo dỡ bớt vũ khí trang bị để lấy chỗ bố trí nơi nghỉ cho 162 binh lính được vận chuyển cùng khoảng 40 tấn trang bị. Hệ thống động lực tương tự như với các lớp BuckleyRudderow; là kiểu động cơ turbine-điện General Electric, cung cấp điện năng cho mô-tơ điện để dẫn động hai trục chân vịt.[3][4]

Dàn vũ khí được giữ lại bao gồm một khẩu pháo 5 inch (130 mm)/38 cal bố trí một phía trước mũi; ba khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và sáu pháo phòng không Oerlikon 20 mm; vũ khí chống ngầm gồm hai đường ray Mk. 9 để thả mìn sâu.[5][6] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 168 thủy thủ; và con tàu được bố trí tiện nghi để vận chuyển 12 sĩ quan cùng 150 binh lính đổ bộ.[5]

Hunter Marshall được đặt lườn như là chiếc DE-602 tại Xưởng tàu Bethlehem-HinghamHingham, Massachusetts vào ngày 9 tháng 3, 1945.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 5, 1945, được đỡ đầu bởi bà Hunter Marshall, mẹ của Thiếu úy Marshall. Con tàu được xếp lại lớp như một tàu vận chuyển cao tốc vào ngày 17 tháng 7, 1945, mang ký hiệu lườn mới APD-112, đồng thời nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ cùng ngày hôm đó dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Albert A. Campbell.[2][7][1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi hành từ Boston, Massachusetts vào ngày 3 tháng 8, 1945, Hunter Marshall vẫn đang tiến hành việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực biển Caribe khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, 1945 giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Nó đi đến Norfolk, Virginia vào ngày 5 tháng 9 và ở lại đây cho đến ngày 10 tháng 10 để tham gia lễ Duyệt binh hạm đội dưới sự chủ trì của Tổng thống Harry S. Truman nhân ngày Hải quân. Sau đó con tàu đi đến Green Cove Springs, Florida vào ngày 25 tháng 11 để chuẩn bị ngừng hoạt động.[2]

Hunter Marshall được cho xuất biên chế tại Green Cove Springs, Florida vào ngày 30 tháng 5, 1946[2][7][1] và được đưa về Đội Florida trực thuộc Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6, 1960,[2][7][1] và con tàu được bán cho chính phủ Ecuador vào tháng 7, 1961 để sử dụng như một trạm phát điện nổi.[2][7] Số phận sau cùng của con tàu không rõ.

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn: Navsource Naval History[7]
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “USS Hunter Marshall (APD 112)”. uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2021.
  2. ^ a b c d e f Naval Historical Center. Hunter Marshall. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2022.
  3. ^ Friedman 1982
  4. ^ Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2022.
  5. ^ a b Whitley 2000, tr. 300–301.
  6. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  7. ^ a b c d e Yarnall, Paul R. (3 tháng 7 năm 2020). “USS Hunter Marshall (APD-112)”. NavSource.org. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2022.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]