Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Ngọc Sang”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 3, replaced: Chuẩn Tướng → Chuẩn tướng (2) using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 6: Dòng 6:
| nơi sinh= Gia Định, VN
| nơi sinh= Gia Định, VN
| nơi mất= Hoa Kỳ
| nơi mất= Hoa Kỳ
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| thuộc= [[Tập tin: GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1951-1975
| năm phục vụ= 1951-1975
| cấp bậc= [[Tập tin:US-O7 insignia.svg|12px]] [[Chuẩn tướng]]
| cấp bậc= [[Tập tin: US-O7 insignia.svg|14px]] [[Chuẩn tướng]]
| đơn vị= Sư đoàn 6 Không quân
| đơn vị= Sư đoàn 6 Không quân
| chỉ huy= Quân đội Quốc gia Việt Nam<br>Quân lực Việt nam Cộng hòa
| chỉ huy= [[Tập tin: Flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br/>[[Tập tin: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]]<br/>[[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
}}
}}


'''Phạm Ngọc Sang''' (1931-2002), nguyên là một tướng lĩnh Không quân của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] mang quân hàm [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ một trường chuyên đào tạo sĩ quan trừ bị cho ngành bộ binh do Quân đội Quốc gia thành lập dưới sự hỗ trợ của Quân đội Pháp. Tuy nhiên, sau đó ông nộp đơn dự thi và trúng tuyển vào Quân chủng Không quân. Ông đã phục vụ ở Quân chủng này cho đến ngày cuối cùng của Chính thể Việt Nam Cộng hòa.
'''Phạm Ngọc Sang''' (1931-2002), nguyên là một tướng lĩnh Không quân của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] mang quân hàm [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ một trường chuyên đào tạo sĩ quan trừ bị cho ngành bộ binh do Quân đội Quốc gia thành lập dưới sự hỗ trợ của Quân đội Pháp. Tuy nhiên, sau đó ông nộp đơn dự thi và trúng tuyển vào Quân chủng Không quân. Ông đã phục vụ ở Quân chủng này cho đến ngày cuối cùng của Chính thể Việt Nam Cộng hòa.
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
Ông sinh ngày 12/8/1931 tại xã Bình Hoà, [[Gia Định]], Nam phần Việt Nam trong một gia đình thương nhân khá giả. Là con cụ Phạm Ngọc Bé và cụ Nguyễn Thị Quờn. Năm 1950, ông tốt nghiệp trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Ông sinh ngày 12/8/1931 tại xã Bình Hoà, [[Gia Định]], Nam phần Việt Nam trong một gia đình thương nhân khá giả. Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Cuối năm 1951, thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia Việt Nam, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/600.003. Theo học khoá 1 Lê Văn Duyệt tại trường quan Trừ bị Thủ Đức, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hưởng quy chế hiện dịch. Ra trường, ông được điều đi phục vụ tại Trung đoàn 17 Bộ binh với chức vụ Trung đội trưởng, đồn trú tại Trà Vinh. Tháng 10 cùng năm, ông trúng tuyển chuyển sang Quân chủng Không quân. Cuối năm, ông được cử đi du học khóa huấn luyện Hoa tiêu Vận tải cơ DC.3 (C.47) và được huấn luyện thêm loại phi cơ T.6 tại trường Không quân Marrakech, Maroc (thuộc địa của Pháp). Đến tháng 8 năm 1953, chuyển sang căn cứ Không quân Avord, học lái phi cơ MD.312. Trung tuần tháng 2 năm 1954, ông tốt nghiệp khóa Hoa tiêu và chuyển qua Blida, Algérie, học bắn và oanh tạc trên phi cơ MD.315. Tháng 5 cùng năm, thụ huấn chuyển tiếp trên DC.4 (C.54) tại Orleans, Pháp. Sau đó ông được thụ huấn thêm bằng Hoa tiêu Vận tải tại Trung tâm Huấn luyện Vận tải Toulouse, Pháp. Cuối năm ông được thăng cấp [[Trung úy]].


Cuối năm 1951, thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia Việt Nam, ông nhập ngũ vào '''Quân đội Quốc gia''' là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/600.003. Theo học khoá 1 Lê Văn Duyệt trường quan trừ bị Thủ Đức ''(khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951, mãn khoá ngày 1 tháng 6 năm 1952)''. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] ngạch hiện dịch. Ra trường, ông được điều đi phục vụ tại Trung đoàn 17 bộ binh với chức vụ Trung đội trưởng, đồn trú tại Trà Vinh. Tháng 10 cùng năm, ông trúng tuyển và được chuyển sang Quân chủng Không quân. Cuối năm này, ông được cử đi du học khoá huấn luyện Hoa tiêu Vận tải cơ DC.3 (C.47) và được huấn luyện thêm loại phi cơ T.6 tại trường Không quân Marrakech, Maroc. Qua tháng 8 năm 1953, chuyển sang căn cứ Không quân Avord, học lái phi cơ MD.312. Bước sang năm 1954, trung tuần tháng 2, ông tốt nghiệp khoá Hoa tiêu và chuyển qua Blida, Algérie, học bắn và oanh tạc trên phi cơ MD.315. Tháng 5 cùng năm, thụ huấn chuyển tiếp trên DC.4 (C.54) tại Orleans, Pháp. Sau đó ông được thụ huấn thêm bằng Hoa tiêu Vận tải tại Trung tâm Huấn luyện Vận tải Toulouse, Pháp. Cuối năm ông được thăng cấp [[Trung úy]].
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Đầu năm 1955, trước khi diễn ra cuộc Tổng tuyển cử hình thành nền Đệ nhất Cộng hòa. Tháng 2, cùng với các Trung úy Huỳnh Hữu Hiền và Lý Tri Tình là 3 Hoa tiêu đầu tiên của Không quân Việt Nam tốt nghiệp tại Trung tâm Toulouse. Sau khi mãn khoá hồi hương, ông tham gia vận chuyển đồng bào di cư từ miền Bắc vào Sài Gòn. Tháng 10 cùng năm ông được thăng cấp [[Đại úy]] giữ chức Chỉ huy trưởng Phi đội Liên lạc ''(trước là Phi đoàn 312 Đặc nhiệm, thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1951)'' thay thế Đại úy Huỳnh Hữu Hiền đi du học khoá huấn luyện viên Khu trục tại Pháp. Cuối năm, ông được tuyển chọn làm Phi công riêng cho Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]].
Tháng 2 năm 1955, trước khi diễn ra cuộc Tổng tuyển cử hình thành nền Đệ nhất Cộng hòa, cùng với các Trung úy Huỳnh Hữu Hiền và Lý Tri Tình là 3 Hoa tiêu đầu tiên của Không quân Việt Nam tốt nghiệp tại Trung tâm Toulouse. Sau khi mãn khóa hồi hương, ông tham gia vận chuyển đồng bào di cư từ miền Bắc vào Sài Gòn. Tháng 10 cùng năm ông được thăng cấp [[Đại úy]] giữ chức Chỉ huy trưởng Phi đội Liên lạc ''(trước là Phi đoàn 312 Đặc nhiệm, thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1951)'' thay thế Đại úy Huỳnh Hữu Hiền đi du học khóa huấn luyện viên Khu trục tại Pháp. Cuối năm, ông được tuyển chọn làm Phi công riêng cho Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]].


Giữa năm 1956, được cử đi du học khoá huấn luyện trên Vận tải cơ DC.4 tại căn cứ KQ Hickam Field, Honolulu, Hoa Kỳ. Đầu năm 1957, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được chỉ định hướng dẫn Phái đoàn Không quân Việt nam Cộng hòa công du thăm viếng Hoa Kỳ.
Giữa năm 1956, ông được cử đi du học khóa huấn luyện trên Vận tải cơ DC.4 tại Căn cứ Không quân Hickam Field, Honolulu, Tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ. Đầu năm 1957, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được chỉ định hướng dẫn Phái đoàn Không quân Việt nam Cộng hòa công du thăm viếng Hoa Kỳ.


Cuối năm 1959, ngày Quốc khánh năm thứ 4 của Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10, ông được thăng cấp [[Trung tá]]. Qua đầu năm 1961, ông được cử đi du học khoá chỉ huy và tham mưu cao cấp tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.
Cuối năm 1959, ngày Quốc khánh năm thứ 4 của Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10, ông được thăng cấp [[Trung tá]]. Qua đầu năm 1961, ông được cử đi du học khoá chỉ huy và tham mưu cao cấp tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.


Cuối năm 1964, ông nhận chức Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang thay thế Đại tá [[Lê Trung Trực]]. Qua giữa năm 1965, được lệnh bàn giao Trung tâm Huấn luyện lại cho Trung tá Nguyễn Văn Ngọc để đi nhận chức Tư lệnh Không đoàn 33 Chiến thuật tại căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt.
Cuối năm 1964, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang thay thế Đại tá [[Lê Trung Trực]]. Đến giữa năm 1965, ông được lệnh bàn giao Trung tâm Huấn luyện lại cho Trung tá Nguyễn Văn Ngọc để đi giữ chức vụ Tư lệnh Không đoàn 33 Chiến thuật tại Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt.


Đầu năm 1966, ông được điều chuyển về lĩnh vực văn phòng, giữ chức vụ Chánh võ phòng Phủ Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương (Phủ Thủ tướng).
Đầu năm 1966, ông chuyển về lĩnh vực văn phòng, giữ chức vụ Chánh võ phòng Phủ Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương (Phủ Thủ tướng).


Ngày 1 tháng 11 năm 1969, ông được thăng cấp [[Đại tá]] và được cử theo học khoá Cao đẳng Quốc phòng tại Đà Lạt. Cùng năm chuyển về Bộ Quốc phòng làm chuyên viên nghiên cứu. Qua giữa năm 1971, được cử đi du học khoá Quản trị Quốc phòng tại trường Navy Post Graduate School ở Monterey, California, Hoa Kỳ.
Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1969, ông được thăng cấp [[Đại tá]] và được cử theo học khóa Cao đẳng Quốc phòng tại Đà Lạt. Cùng năm chuyển về Bộ Quốc phòng làm chuyên viên nghiên cứu. Đến giữa năm 1971, được cử đi du học khóa Quản trị Quốc phòng tại trường Navy Post Graduate School ở Monterey, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.


Tháng 10 năm 1972, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Không quân tân lập thứ 6 của Không lực Việt Nam Cộng hòa tại Pleiku. Trung tuần tháng 12 năm 1973, ông được tuyên dương công trạng trước Quân đội kèm theo Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.
Tháng 10 năm 1972, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Không quân tân lập thứ 6 của Không lực Việt Nam Cộng hòa tại Pleiku. Trung tuần tháng 12 năm 1973, ông được tuyên dương công trạng trước Quân đội kèm theo Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.


Ngáy 1 tháng 4 năm 1974, ông được vinh thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.
Ngáy 1 tháng 4 năm 1974, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.

==1975==
==1975==
Ngày 15 tháng 3, được lệnh di tản chiến thuật Sư đoàn 6 Không quân từ Pleiku xuống Phan Rang.
Ngày 15 tháng 3, được lệnh di tản chiến thuật Sư đoàn 6 Không quân từ Pleiku xuống Phan Rang.


Trưa ngày 16 tháng 4, bị quân Giải phóng bắt cùng với Trung tướng [[Nguyễn Vĩnh Nghi]], bị tạm giam tại Cam Lâm, Khánh Hoà rồi Đà Nẵng, cuối cùng bị đưa ra Bắc qua các trại giam: Sơn Tây, Hoàng liên Sơn, Hà Tây, Hà Sơn Bình, Nam Hà. Sau đó, ngày 31 tháng 11 năm 1988 được đưa về miền Nam giam giữ ở trại Z30.D Hàm Tân, Bình Thuận. Cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1992 mới được trả tự do.
Trưa ngày 16 tháng 4, ông bị quân đối phuơng bắt cùng với Trung tướng [[Nguyễn Vĩnh Nghi]], bị tạm giam tại Cam Lâm, Khánh Hoà rồi Đà Nẵng, cuối cùng bị đưa ra Bắc qua các trại giam: Sơn Tây, Hoàng liên Sơn, Hà Tây, Hà Sơn Bình, Nam Hà. Sau đó, ngày 31 tháng 11 năm 1988 được đưa về miền Nam giam giữ ở trại Z30.D Hàm Tân, Bình Thuận. Cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1992 ông mới được trả tự do.


Ngày 22 tháng 2 năm 1992, cùng với gia đình được Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh xuất cảnh định cư tại Garden Grove, California, Hoa Kỳ.
Ngày 22 tháng 2 năm 1992, cùng với gia đình xuất cảnh theo chương trình "Ra đi trật tự" diện H.O. Sau đó định cư tại Garden Grove, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Ngày 30 tháng 11 năm 2002, ông từ trần tại nơi định cư. Huơng thọ 71 tuổi.


Ngày 30 tháng 11 năm 2002, ông từ trần tại nơi định cư. Thọ 71 tuổi.
==Gia đình==
==Gia đình==
*Song thân: Cụ Phạm Ngọc Bé (1911-1996) và cụ Nguyễn Thị Quờn
*Phu nhân: Bà Nguyễn Thị Bôn (Sinh năm 1933). Ông bà có 5 người con gồm: 3 trai, 2 gái.
*Phu nhân: Bà Nguyễn Thị Bôn (Sinh năm 1933) - Ông bà có 5 người con gồm: 3 trai, 2 gái.

==Tham khảo==
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
{{tham khảo}}
* {{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=2011 |title=Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa |publisher=Hương Quê |isbn=978-0-9852-1820-1}} {{cần số trang}}
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011) ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.


==Xem thêm==
==Xem thêm==
Dòng 53: Dòng 59:
==Chú thích==
==Chú thích==


[[Thể loại:Sinh 1931]]
{{thời gian sống|1931|2002}}
[[Thể loại:Mất 2002]]

[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Người Sài Gòn]]
[[Thể loại:Người Sài Gòn]]

Phiên bản lúc 03:36, ngày 25 tháng 8 năm 2016

Phạm Ngọc Sang
Sinh12-8-1931
Gia Định, VN
Mất39-11-2002
Hoa Kỳ
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1951-1975
Quân hàm Chuẩn tướng
Đơn vịSư đoàn 6 Không quân
Chỉ huy Quân đội Quốc gia

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Phạm Ngọc Sang (1931-2002), nguyên là một tướng lĩnh Không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mang quân hàm Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ một trường chuyên đào tạo sĩ quan trừ bị cho ngành bộ binh do Quân đội Quốc gia thành lập dưới sự hỗ trợ của Quân đội Pháp. Tuy nhiên, sau đó ông nộp đơn dự thi và trúng tuyển vào Quân chủng Không quân. Ông đã phục vụ ở Quân chủng này cho đến ngày cuối cùng của Chính thể Việt Nam Cộng hòa.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 12/8/1931 tại xã Bình Hoà, Gia Định, Nam phần Việt Nam trong một gia đình thương nhân khá giả. Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối năm 1951, thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia Việt Nam, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/600.003. Theo học khoá 1 Lê Văn Duyệt tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hưởng quy chế hiện dịch. Ra trường, ông được điều đi phục vụ tại Trung đoàn 17 Bộ binh với chức vụ Trung đội trưởng, đồn trú tại Trà Vinh. Tháng 10 cùng năm, ông trúng tuyển chuyển sang Quân chủng Không quân. Cuối năm, ông được cử đi du học khóa huấn luyện Hoa tiêu Vận tải cơ DC.3 (C.47) và được huấn luyện thêm loại phi cơ T.6 tại trường Không quân Marrakech, Maroc (thuộc địa của Pháp). Đến tháng 8 năm 1953, chuyển sang căn cứ Không quân Avord, học lái phi cơ MD.312. Trung tuần tháng 2 năm 1954, ông tốt nghiệp khóa Hoa tiêu và chuyển qua Blida, Algérie, học bắn và oanh tạc trên phi cơ MD.315. Tháng 5 cùng năm, thụ huấn chuyển tiếp trên DC.4 (C.54) tại Orleans, Pháp. Sau đó ông được thụ huấn thêm bằng Hoa tiêu Vận tải tại Trung tâm Huấn luyện Vận tải Toulouse, Pháp. Cuối năm ông được thăng cấp Trung úy.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Tháng 2 năm 1955, trước khi diễn ra cuộc Tổng tuyển cử hình thành nền Đệ nhất Cộng hòa, cùng với các Trung úy Huỳnh Hữu Hiền và Lý Tri Tình là 3 Hoa tiêu đầu tiên của Không quân Việt Nam tốt nghiệp tại Trung tâm Toulouse. Sau khi mãn khóa hồi hương, ông tham gia vận chuyển đồng bào di cư từ miền Bắc vào Sài Gòn. Tháng 10 cùng năm ông được thăng cấp Đại úy giữ chức Chỉ huy trưởng Phi đội Liên lạc (trước là Phi đoàn 312 Đặc nhiệm, thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1951) thay thế Đại úy Huỳnh Hữu Hiền đi du học khóa huấn luyện viên Khu trục tại Pháp. Cuối năm, ông được tuyển chọn làm Phi công riêng cho Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Giữa năm 1956, ông được cử đi du học khóa huấn luyện trên Vận tải cơ DC.4 tại Căn cứ Không quân Hickam Field, Honolulu, Tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ. Đầu năm 1957, ông được thăng cấp Thiếu tá và được chỉ định hướng dẫn Phái đoàn Không quân Việt nam Cộng hòa công du thăm viếng Hoa Kỳ.

Cuối năm 1959, ngày Quốc khánh năm thứ 4 của Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10, ông được thăng cấp Trung tá. Qua đầu năm 1961, ông được cử đi du học khoá chỉ huy và tham mưu cao cấp tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.

Cuối năm 1964, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang thay thế Đại tá Lê Trung Trực. Đến giữa năm 1965, ông được lệnh bàn giao Trung tâm Huấn luyện lại cho Trung tá Nguyễn Văn Ngọc để đi giữ chức vụ Tư lệnh Không đoàn 33 Chiến thuật tại Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt.

Đầu năm 1966, ông chuyển về lĩnh vực văn phòng, giữ chức vụ Chánh võ phòng Phủ Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương (Phủ Thủ tướng).

Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1969, ông được thăng cấp Đại tá và được cử theo học khóa Cao đẳng Quốc phòng tại Đà Lạt. Cùng năm chuyển về Bộ Quốc phòng làm chuyên viên nghiên cứu. Đến giữa năm 1971, được cử đi du học khóa Quản trị Quốc phòng tại trường Navy Post Graduate School ở Monterey, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Tháng 10 năm 1972, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Không quân tân lập thứ 6 của Không lực Việt Nam Cộng hòa tại Pleiku. Trung tuần tháng 12 năm 1973, ông được tuyên dương công trạng trước Quân đội kèm theo Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.

Ngáy 1 tháng 4 năm 1974, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.

1975

Ngày 15 tháng 3, được lệnh di tản chiến thuật Sư đoàn 6 Không quân từ Pleiku xuống Phan Rang.

Trưa ngày 16 tháng 4, ông bị quân đối phuơng bắt cùng với Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, bị tạm giam tại Cam Lâm, Khánh Hoà rồi Đà Nẵng, cuối cùng bị đưa ra Bắc qua các trại giam: Sơn Tây, Hoàng liên Sơn, Hà Tây, Hà Sơn Bình, Nam Hà. Sau đó, ngày 31 tháng 11 năm 1988 được đưa về miền Nam giam giữ ở trại Z30.D Hàm Tân, Bình Thuận. Cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1992 ông mới được trả tự do.

Ngày 22 tháng 2 năm 1992, cùng với gia đình xuất cảnh theo chương trình "Ra đi có trật tự" diện H.O. Sau đó định cư tại Garden Grove, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Ngày 30 tháng 11 năm 2002, ông từ trần tại nơi định cư. Huơng thọ 71 tuổi.

Gia đình

  • Song thân: Cụ Phạm Ngọc Bé (1911-1996) và cụ Nguyễn Thị Quờn
  • Phu nhân: Bà Nguyễn Thị Bôn (Sinh năm 1933) - Ông bà có 5 người con gồm: 3 trai, 2 gái.

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011) Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Xem thêm

Chú thích