Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hương cống”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Vua Minh Mạng không thể sống tới năm 1928
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 11: Dòng 11:
Hương cống và sinh đồ là tên gọi do vua [[Lê Thánh Tông]] đặt năm [[1466]].
Hương cống và sinh đồ là tên gọi do vua [[Lê Thánh Tông]] đặt năm [[1466]].


Đến năm [[1828]] vua [[Minh Mạng]] mới đổi cách gọi: sinh đồ thành [[tú tài]], hương cống thành [[cử nhân]].
Đến năm [[1828]] vua [[Minh Mạng]] mới đổi cách gọi: sinh đồ thành '''Tú tài''', hương cống thành '''Cử nhân'''.


==Xem thêm==
==Xem thêm==

Phiên bản lúc 11:23, ngày 4 tháng 4 năm 2007

Hương cống là một loại học vị trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến. Loại học vị này được xác định trong kỳ thi Hương.

Vào đời nhà Hậu Lê mỗi khoa thi Hương có 4 kỳ (xưa gọi là 4 trường) kéo dài khoảng 1 tháng. Nội dung thi cơ bản như sau:

  • Kỳ I: Kinh nghĩa, thư nghĩa;
  • Kỳ II: chiếu, chế, biểu;
  • Kỳ III: thơ phú;
  • Kỳ IV: văn sách.

Thi xong kỳ nào chấm bài kỳ ấy, ai đỗ vào thi tiếp kỳ sau, ai trượt thì về. Thi đỗ kỳ III, vào kỳ IV; không đỗ thì được nhận học vị sinh đồ; đỗ cả 4 kỳ được nhận học vị hương cống.

Hương cống và sinh đồ là tên gọi do vua Lê Thánh Tông đặt năm 1466.

Đến năm 1828 vua Minh Mạng mới đổi cách gọi: sinh đồ thành Tú tài, hương cống thành Cử nhân.

Xem thêm