Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiên quân chính trị”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cnbhkoryo (thảo luận | đóng góp)
Tiên quân
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
{{Infobox Korean name|context=north|hangul=선군정치|hanja=先軍政治政治|hanviet=Tiên quân chính trị|mr=Sŏn'gun chŏngch'i|rr=Seon(-)gun jeongchi}}
{{Infobox Korean name|context=north|hangul=선군정치|hanja=先軍政治|hanviet=Tiên quân chính trị|mr=Sŏn'gun chŏngch'i|rr=Seon(-)gun jeongchi}}


'''Tiên quân''' là chính sách "quân đội trước nhất" của [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên]], theo đó thì [[Quân đội Nhân dân Triều Tiên]] được ưu tiên so với các vấn đề khác của đất nước và nguồn lực quốc gia sẽ được phân bổ cho quân đội đầu tiên. "Tiên quân" là một nguyên tắc dẫn đường cho đời sống chính trị và kinh tế tại CHDCND Triều Tiên, và "chính trị Tiên quân" thống trị hệ thống chính trị, "một phòng tuyến kiến thiết kinh tế Tiên quân" đóng vai trò là hệ thống kinh tế, và "tư tưởng Tiên quân" đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo. Tiên quân nâng cao vị thế của Quân đội Nhân dân Triều Tiên tại CHDCND Triều Tiên, trao cho quân đội vị trí quan trọng bậc nhất trong chính quyền và xã hội CHDCND Triều Tiên. Tiên quân chỉ dẫn chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước.<ref name="Vorontsov">Alexander V. Vorontsov, "North Korea's Military-First Policy: A Curse or a Blessing?" ''Brookings Institution'', 26 tháng 5 năm 2006, <http://www.brookings.edu/views/op-ed/fellows/vorontsov20060526.htm> 26 tháng 3 năm 2007.</ref>.
'''Tiên quân''' là chính sách "quân đội trước nhất" của [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên]], theo đó thì [[Quân đội Nhân dân Triều Tiên]] được ưu tiên so với các vấn đề khác của đất nước và nguồn lực quốc gia sẽ được phân bổ cho quân đội đầu tiên. "Tiên quân" là một nguyên tắc dẫn đường cho đời sống chính trị và kinh tế tại CHDCND Triều Tiên, và "chính trị Tiên quân" thống trị hệ thống chính trị, "một phòng tuyến kiến thiết kinh tế Tiên quân" đóng vai trò là hệ thống kinh tế, và "tư tưởng Tiên quân" đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo. Tiên quân nâng cao vị thế của Quân đội Nhân dân Triều Tiên tại CHDCND Triều Tiên, trao cho quân đội vị trí quan trọng bậc nhất trong chính quyền và xã hội CHDCND Triều Tiên. Tiên quân chỉ dẫn chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước.<ref name="Vorontsov">Alexander V. Vorontsov, "North Korea's Military-First Policy: A Curse or a Blessing?" ''Brookings Institution'', 26 tháng 5 năm 2006, <http://www.brookings.edu/views/op-ed/fellows/vorontsov20060526.htm> 26 tháng 3 năm 2007.</ref>.

Phiên bản lúc 01:46, ngày 6 tháng 9 năm 2012

Tiên quân chính trị
Chosŏn'gŭl
선군정치
Hancha
先軍政治
Romaja quốc ngữSeon(-)gun jeongchi
McCune–ReischauerSŏn'gun chŏngch'i
Hán-ViệtTiên quân chính trị

Tiên quân là chính sách "quân đội trước nhất" của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, theo đó thì Quân đội Nhân dân Triều Tiên được ưu tiên so với các vấn đề khác của đất nước và nguồn lực quốc gia sẽ được phân bổ cho quân đội đầu tiên. "Tiên quân" là một nguyên tắc dẫn đường cho đời sống chính trị và kinh tế tại CHDCND Triều Tiên, và "chính trị Tiên quân" thống trị hệ thống chính trị, "một phòng tuyến kiến thiết kinh tế Tiên quân" đóng vai trò là hệ thống kinh tế, và "tư tưởng Tiên quân" đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo. Tiên quân nâng cao vị thế của Quân đội Nhân dân Triều Tiên tại CHDCND Triều Tiên, trao cho quân đội vị trí quan trọng bậc nhất trong chính quyền và xã hội CHDCND Triều Tiên. Tiên quân chỉ dẫn chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước.[1].

Thời kỳ tiên quân bắt đầu vào năm 1960 khi Kim Chính Nhật (Kim Jong-il) cùng với cha là Kim Nhật Thành (Kim Il-sung) đến thăm sư đoàn xe tăng 105 Seoul Ryugyong (Liễu Kinh, tên cũ của Bình Nhưỡng), chuyến thăm đầu tiên đến các căn cứ của Quân đội Nhân dân Triều Tiên trên toàn quốc.

Tuy nhiên, Tiên quân không phải là một chính sách chính thức của chính quyền cho đến khi Kim Nhật Thành qua đời vào năm 1994. Năm 1995, các chính sách "tiên quân" đã được giới thiệu là "một tư tưởng cách mạng gắn liền hết sức quan trọng với quân đội" và "một nền chính trị nhấn mạnh tính thống nhất hoàn toàn và và thống nhất chung một ý chí của đảng, quân đội và nhân dân, và vai trò của quân đội là lực lượng tiên phong"[2] trong chuyến viếng thăm đơn vị quân sự đầu tiên của Kim Chính Nhật vào năm đó. Đây là một sự thay đổi không đáng kể so với chính sách của chính phủ trước đó, tứcchủ thể của Kim Nhật Thành,.[3]

Năm 1997, một bài xã luận đăng trên Rodong Sinmun, tờ báo của Đảng Lao động Triều Tiên, đã viết rằng: "Từ trước đến nay, địa vị và vai trò của Quân đội Nhân dân chưa từng được nâng cao phi thường như hiện nay, khi nằm dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ của Đồng chí Tổng tư lệnh tối cao đáng kính và kính yêu." Vào thời điểm này, Quân đội Nhân dân cũng trở nên "đồng nghĩa với nhân dân, đất nước và đảng."[4]

Chú thích

  1. ^ Alexander V. Vorontsov, "North Korea's Military-First Policy: A Curse or a Blessing?" Brookings Institution, 26 tháng 5 năm 2006, <http://www.brookings.edu/views/op-ed/fellows/vorontsov20060526.htm> 26 tháng 3 năm 2007.
  2. ^ Global Security "Songun Chongch'I [Army First]. Global Security.org. 27 tháng 4 năm 2005. 20 tháng 3 năm 2007.
  3. ^ Korean Overseas Information Service, "Is N.K. Trying an Experiment for Survival?" Korea.net, 6 tháng 8 năm 2002 < http://www.korea.net/News/Issues/IssueDetailView.asp?board_no=3508> 12 tháng 5 năm 2007.
  4. ^ Byung Chul Koh, "Military-First Politics and Building a ‘Powerful and Prosperous Nation' In North Korea" Nautilus Institute Policy Forum Online, 14 tháng 4 năm 2005, <http://www.nautilus.org/fora/security/0532AKoh.html> 20 tháng 3 năm 2007.

Tham khảo

  • Cheong Wook-Sik, "Military First Policy", Presented at Washington Peace Network, Washington, D.C., April 19, 2007
  • Chun Mi-Young, The Kim Jong Il administration's recognition of politics, KINU policy series, September 2006
  • John Feffer, Forgotten Lessons of Helsinki: Human Rights and U.S.-North Korean Relations, World Policy Journal, v.XXI, no.3, Fall 2004
  • Alexander Platkovskiy, Nuclear Blackmail and North Korea's Search for a place in the sun, The North Korean Nuclear Program. New York and London: Routledge, 2000