Đồng Vương công Andorra

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đồng Thân vương của Andorra
Coprínceps d'Andorra (tiếng Catalunya)
Đương nhiệm
Joan-Enric Vives i Sicília
từ 12 tháng 5 năm 2003
Đồng đương nhiệm
Emmanuel Macron
từ 14 tháng 5 năm 2017
Chi tiết
Cách gọiHis Excellency
Quân chủ đầu tiênPere d'Urtx
Roger-Bernard III
Hình thành1278; 746 năm trước (1278)
Dinh thựLa Seu d'Urgell Cathedral (Tây Ban Nha)
Cung điện Élysée (Pháp)

Đồng Thân vương của Andorra (Tiếng Catalunya: cap d'estat; tiếng Pháp: Cosuzeraineté d'Andorre; tiếng Anh Co-Princes of Andorra) cùng là nguyên thủ quốc gia[1] của Công quốc Andorra, một quốc gia không giáp biển nằm trong dãy Pyrenees giữa PhápTây Ban Nha. Được thành lập vào năm 1278 bằng một hiệp ước giữa Giám mục xứ UrgellBá tước xứ Foix, sự sắp xếp chế độ phân cấp độc đáo này đã tồn tại qua thời trung cổ cho đến tận ngày nay. Hiện tại, Giám mục xứ Urgell (Joan Enric Vives Sicília) và Tổng thống Pháp (Emmanuel Macron) đóng vai trò là đồng Thân vương của Andorra, sau khi chuyển giao quyền lực của Bá tước xứ Foix cho Vương quốc Pháp và sau đó là người đứng đầu nhà nước Cộng hòa Pháp. Mỗi đồng Thân vương chỉ định một đại diện cá nhân cho mình, Giám mục xứ Urgell chỉ định Josep Maria Mauri và Tổng thống Pháp Macron chỉ định Patrick Strzoda làm đại diện cho mình.[2]

Nguồn gốc của tước hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Truyền thống cho rằng Charlemagne đã cấp một hiến chương cho người Andorra để đổi lại họ sẽ ủng hộ cuộc chiến chống lại người Moor trên Bán đảo Iberia. Lãnh chúa phong kiến ​​của lãnh thổ này lúc đầu là Bá tước xứ Urgell. Tuy nhiên, vào năm 988, Bá tước Borrell II đã trao Andorra cho Giáo phận Urgell để đổi lấy đất ở Cerdanya.[3] Giám mục xứ Urgell, có trụ sở tại La Seu d'Urgell, đã cai trị Andorra kể từ đó.[4]

Trước năm 1095, Andorra không có bất kỳ hình thức bảo vệ quân sự nào, và vì Giám mục xứ Urgell biết rằng Bá tước xứ Urgell muốn đòi lại các thung lũng Andorra[4] nên ông đã nhờ đến sự giúp đỡ từ Lãnh chúa xứ Caboet. Năm 1095, lãnh chúa và giám mục đã ký tuyên bố về đồng chủ quyền của họ đối với Andorra. Arnalda, con gái của Arnau xứ Caboet, kết hôn với Tử tước Castellbò, và cả hai đều trở thành Tử tước xứ Castellbò và Cerdanya. Con gái của họ, Ermessenda,[5] kết hôn với Roger Bernat II, Bá tước xứ Foix người Pháp. Họ lần lượt trở thành bá tước và bá tước phu nhân xứ Foix, tử tước và tử tước phu nhân xứ Castellbò và Cerdanya, đồng thời là đồng chủ quyền của Andorra (cùng với Giám mục xứ Urgell).

Vào thế kỷ XI, một cuộc tranh chấp nảy sinh giữa Giám mục xứ Urgell và Bá tước xứ Foix. Cuộc xung đột được Vương quyền Aragon làm trung gian vào năm 1278 và dẫn đến việc ký kết paréage đầu tiên, trong đó quy định rằng chủ quyền của Andorra được chia sẻ giữa bá tước[4] và giám mục. Điều này mang lại cho công quốc lãnh thổ và hình thức chính trị, đồng thời đánh dấu sự khởi đầu chính thức của thể chế quân chủ độc đáo của Andorra.

Thông qua quyền thừa kế, tước hiệu của Bá tước xứ Foix ở Andorra được truyền lại cho các vị vua của Vương quốc Navarre. Sau khi Henry III của Navarre lên ngôi và trở thành vua Henri IV của Pháp, ông đã ban hành một sắc lệnh vào năm 1607, quy định vua Pháp và Giám mục xứ Urgell sẽ trở thành đồng Thân vương của Andorra. Năm 1812–1813, Đệ Nhất Đế chế Pháp của Vương tộc Bonaparte sáp nhập Catalonia và chia vùng này thành 4 tỉnh, trong đó Andorra trở thành một phần của quận Puigcerdà (thuộc tỉnh Sègre). Sau thất bại của Napoléon I, một sắc lệnh của hoàng gia đã đảo ngược việc sáp nhập này, và Andorra trở lại trạng thái độc lập và chính trị trước đây.[6][7][8] Nguyên thủ quốc gia Pháp - dù là vua, hoàng đế hay tổng thống - vẫn tiếp tục giữ chức vụ đồng Thân vương của Andorra kể từ đó cho đến tận ngày nay.

Lịch sử gần đây[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 12 tháng 7 năm 1934, hệ thống quân chủ của Andorra bị thách thức bởi một nhà thám hiểm tên là Boris Skossyreff, người đã đưa ra một tuyên bố tại Urgell tự xưng là "Boris I, Vua của Andorra".[9] Mặc dù ban đầu được hưởng một số sự ủng hộ trong cơ sở chính trị của Andorra, nhưng cuối cùng ông vẫn bị chính quyền Tây Ban Nha bắt giữ vào ngày 20 tháng 7 năm 1934 sau khi tuyên chiến với Giám mục xứ Urgell (người đã từ chối từ bỏ yêu sách của mình đối với Thân vương quốc Andorra). Skossyreff đã bị trục xuất và chưa bao giờ được coi là Vua của Andorran theo bất kỳ ý nghĩa pháp lý nào.

Trước năm 1993, Andorra không có hiến pháp được luật hóa và các đặc quyền chính xác của các đồng Thân vương không được quy định cụ thể trong luật. Vào tháng 3 năm 1993, một Hiến pháp đã được thông qua bởi cuộc bỏ phiếu của người dân Andorran và được hai vị đồng Thân vương trị vì vào thời điểm đó: Giám mục Joan Martí Alanis và Tổng thống François Mitterrand ký thành luật. Nó làm rõ sự tiếp tục của chế độ quân chủ đồng Thân vương của Andorra, đồng thời cũng phân định vai trò và đặc quyền chính xác của hai vị đồng Thân vương. Trước khi thông qua Hiến pháp, Andorra đã cống nạp vào những năm lẻ khoảng 460 USD cho nhà cai trị Pháp, trong khi vào những năm chẵn, Andorra đã cống nạp khoảng 12 USD cho giám mục Tây Ban Nha, cộng với 6 miếng giăm bông, sáu bánh pho mát, và sáu con gà sống. Phong tục thời trung cổ này sau đó đã bị bãi bỏ vào năm 1993.[10]

Năm 2009, tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đe dọa sẽ thoái vị với tư cách là đồng Thân vương nếu Thân vương quốc Andorra không thay đổi luật ngân hàng để loại bỏ tình trạng là thiên đường thuế, đã tồn tại lâu đời của quốc gia này.[11]

Năm 2014, Joan Enric Vives i Sicília nói rằng ông sẽ thoái vị làm giám mục xứ Urgell và đồng Thân vương của Andorra nếu Quốc hội Andorra thông qua luật hợp pháp hóa việc phá thai. Tòa giám mục sau đó đã tạm ngừng hoạt động ít nhất cho đến khi luật được ban hành, để không giáo sĩ nào phải ký vào đó.[12] Điều này sẽ khiến Andorra trở thành quốc gia thứ hai (sau Vương quốc Bỉ) nơi nguyên thủ quốc gia từ chối ký luật hợp pháp hóa việc phá thai mà không ngăn cản việc ban hành luật.

Vai trò chính trị đương đại[sửa | sửa mã nguồn]

Hiến pháp Andorra xác định cẩn thận vai trò và đặc quyền chính xác của các đồng Vương công Andorra ngày nay. Hiến pháp thiết lập Andorra như một "tính đồng nguyên của nghị viện",[13] cho phép Giám mục xứ Urgell và Tổng thống Pháp cùng phục vụ với tư cách là nguyên thủ quốc gia chung.[14] Hiến pháp phân biệt giữa những quyền lực nào họ có thể tự mình thực hiện (Điều 46) và quyền lực nào cần có chữ ký của người đứng đầu chính phủ Andorra hoặc sự chấp thuận của "Síndic General" (Đại hội đồng), cơ quan lập pháp Andorra (Điều 45).

Quyền hạn mà các đồng Vương công có thể tự mình thực hiện bao gồm:[15]

  • Cùng thực hiện “đặc quyền ân sủng” (quyền xá tội);
  • Mỗi đồng Vương công có thể bổ nhiệm một thành viên Hội đồng Tư pháp cấp cao và một thành viên Tòa án Hiến pháp;
  • Thành lập các cơ quan mà họ cho là cần thiết để thực hiện các đặc quyền theo hiến pháp của mình và bổ nhiệm các cá nhân để lãnh đạo các cơ quan này;
  • Yêu cầu phán quyết sơ bộ về tính hợp hiến của dự thảo luật hoặc điều ước quốc tế;
  • Đồng ý với văn bản của bất kỳ điều ước quốc tế nào trước khi trình Quốc hội phê chuẩn;
  • Đưa vụ việc ra trước Tòa án Hiến pháp trong trường hợp có bất kỳ xung đột nào về việc thực hiện các đặc quyền theo hiến pháp của họ.

Quyền hạn của các đồng Vương công có thể thực hiện cùng với người đứng đầu chính phủ bao gồm:[16]

  • Kêu gọi bầu cử hoặc trưng cầu dân ý theo quy định của Hiến pháp;
  • Bổ nhiệm người đứng đầu Chính phủ theo quy định của Hiến pháp;
  • Giải tán Đại hội đồng (cơ quan lập pháp Andorran) trước khi hết nhiệm kỳ hiện tại (nhưng phải ít nhất một năm trôi qua kể từ cuộc bầu cử trước);[17]
  • Công nhận các đại diện ngoại giao từ Andorra tới các quốc gia nước ngoài và nhận quốc thư bổ nhiệm của các đại diện nước ngoài tại Andorra;[a]
  • Bổ nhiệm người giữ chức vụ theo đúng quy định của hiến pháp;
  • Xử phạt và ban hành luật theo quy định của hiến pháp;
  • Chấp thuận chính thức các điều ước quốc tế sau khi được Đại hội đồng phê chuẩn.

Mỗi đồng Vương công được Đại hội đồng cấp một khoản trợ cấp hàng năm để xử lý khi họ thấy phù hợp.[18] Mỗi người bổ nhiệm một đại diện cá nhân ở Andorra,[19] và trong trường hợp một trong số họ mất năng lực, hiến pháp quy định cho Thân vương kia trị vì khi vắng mặt, với sự đồng tình của người đứng đầu chính phủ Andorra hoặc Đại hội đồng.[20]

Một số điều trong hiệp ước nhất định yêu cầu sự tham gia của các đồng Thân vương (hoặc đại diện được chỉ định của họ) trong quá trình đàm phán cũng như sự phê duyệt cuối cùng của họ; những điều này được nêu chi tiết trong Điều 66 và 67 của hiến pháp.

Các đồng Thân vương cùng giữ quyền đề xuất sửa đổi hiến pháp; quyền này thuộc về Đại Hội đồng.[21] Họ không có quyền phủ quyết đối với các đạo luật được Đại hội đồng thông qua, mặc dù họ vẫn có quyền phủ quyết đối với một số hiệp ước quốc tế nhất định, như đã mô tả ở trên.

Danh sách Đông Thân vương Andorra[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “The constitution of the Principality of Andorra”. www.andorramania.com.
  2. ^ “Why is the President of France Co-Prince of Andorra?”. Royal Central. 7 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2019. The President of France, Emmanuel Macron, serves as Co-Prince of Andorra in addition to his duties as French President and is one of the few examples of a democratically elected leader serving in a royal capacity in another country. Since 2003, the other Co-Prince is the bishop of Urgell from Spain, Joan-Enric Vives i Sicília.
  3. ^ Bản mẫu:Cite GREC
  4. ^ a b c Things about the history of Andorra Lưu trữ 9 tháng 2 2010 tại Archive.today French Co-prince (tiếng Catalunya)
  5. ^ Bản mẫu:Cite GREC
  6. ^ Armengol Aleix 2009, tr. 172.
  7. ^ Guillamet Anton 2009, tr. 172.
  8. ^ Armengol Aleix 2009, tr. 342, 343.
  9. ^ Events, Issues 19-24, page 46, 1938
  10. ^ Andorra: Septicentennial for a Ministate, from Time, 30 October 1978.
  11. ^ Sarkozy threatens to renounce Andorran title.
  12. ^ Jesús Bastante (22 tháng 9 năm 2014). “La aprobación de la ley del Aborto en Andorra podría llevar a Vives a Barcelona”. Religión. Periodisto Digital (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2023.
  13. ^ Constitution of Andorra, 1:4.
  14. ^ Constitution of Andorra, 43:1-2.
  15. ^ Constitution of Andorra, Article 46.
  16. ^ Constitution of Andorra, Article 45.
  17. ^ Constitution of Andorra:45:1:E and 71:1-3.
  18. ^ Constitution of Andorra:45:1:E and 71:1-3.
  19. ^ Constitution of Andorra, 48.
  20. ^ Constitution of Andorra, 45:3.
  21. ^ Constitution of Andorra, 105.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Armengol Aleix, E. (2009). Andorra: un profund i llarg viatge (bằng tiếng Catalan). Andorra: Government of Andorra. ISBN 9789992005491.
  • Guillamet Anton, J. (2009). Andorra: nova aproximació a la història d'Andorra (bằng tiếng Catalan). Andorra: Revista Altaïr. ISBN 9788493622046.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]