RUR-5 ASROC
RUR-5 ASROC | |
---|---|
Bệ phóng tên lửa ASROC trên tàu khu trục Mölders (D186) của Hải quân Đức | |
Loại | Tên lửa đạn đạo chống ngầm[1] |
Nơi chế tạo | Hoa Kỳ |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1961[2] |
Sử dụng bởi | Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân các nước Đồng minh |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Trung tâm thử nghiệm vũ khí Hải quân Pasadena[1] Honeywell |
Nhà sản xuất | Honeywell[2] |
Giá thành | Khoảng 350.000 USD (chưa bao gồm đầu đạn) |
Thông số | |
Khối lượng | 1.073 pound (487 kg)[2] |
Chiều dài | 14,75 ft (4,50 m)[2] |
Đường kính | 16,6 inch (420 mm) |
Đầu nổ | ngư lôi Mark 46, 96,8 pound (43,9 kg)[2] of PBXN-103 high explosive; 10 kt (42 TJ) đầu đạn hạt nhân W44 (ngừng trang bị) |
Cơ cấu nổ mechanism | Tùy thuộc loại đầu đạn |
Động cơ | Động cơ tên lửa nhiên liệu rắn[2] |
Sải cánh | 26+7⁄8 inch (680 mm) |
Tầm hoạt động | 6 mi (9,7 km)[3] |
Tốc độ | Dưới tốc độ âm thanh |
Nền phóng | Tàu chiến[1] |
RUR-5 ASROC ("Anti-Submarine Rocket"-Rocket chống ngầm) là một loại tên lửa chống ngầm trong mọi điều kiện thời tiết/điều kiện biển do Hải quân Mỹ phát triển từ những năm 1950s, và được đưa vào triển khai từ những năm 1960s, nâng cấp vào những năm 1990 và trang bị trên hơn 200 tàu chiến mặt nước của Hải quân Mỹ, đặc biệt là tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu frigate. Tên lửa chống ngầm ASROC được triển khai trên tàu Hải quân của các nước như Canada, Đức, Ý, Nhật Bản, Đài Loan, Hy Lạp, Pakistan và các nước khác.[4]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]ASROC bắt đầu được phát triển với tên gọi là chương trình Ngư lôi có động cơ tên lửa đẩy hỗ trợ - Rocket Assisted Torpedo (RAT) do Naval Air Weapons Station China Lake thực hiện vào đầu những năm 1950 để phát triển một loại vũ khí chống ngầm cho tàu chiến mặt nước để đối phó với các tàu ngầm Liên Xô khi đó, có độ im lặng, tốc độ ngày một cao hơn, vượt quá khả năng của các đầu dò thủy âm trang bị trên ngư lôi của Hải quân Mỹ. Ngoài ra mục tiêu của dự án là phát triển các loại radar thủy âm hiện đại với tầm phát hiện mục tiêu xa hơn nhiều. Một ngư lôi được tăng thêm tầm bắn nhờ động cơ tên lửa và được thả xuống mặt nước bằng dù sẽ cho phép tàu chiến có một vùng đệm an toàn để tấn công tàu ngầm đối phương, trong khi tàu ngầm đối phương sẽ khó có thể phát hiện tàu chiến ở khoảng cách đó.
Chương trình RAT được chia làm 3 giai đoạn:[5] RAT-A, RAT-B và RAT-C. RAT-A và RAT-B, là vũ khí chống ngầm tầm xa có giá thành rẻ sử dụng trên các tàu chiến cỡ nhỏ nhưng không có độ tin cậy cao và tầm bắn quá ngắn. RAT-C được phát triển là vũ khí khí chống ngầm trang bị bom chìm đầu đạn hạt nhân. Tầm bắn tối thiểu của RAT-C phải là 8.000 thước Anh (7.300 m) để đảm bảo tàu chiến thoát khỏi ảnh hưởng từ vụ nổ hạt nhân dưới nước. Phiên bản RAT-C có kích thước lớn hơn đáng kể so với RAT-A và RAT-B để phù hợp với tầm bắn tăng lên và được trang bị cho các tàu chiến cỡ lớn.
Sau thất bại của cả hai chương trình RAT-A và RAT-B, RAT-C được thiết kế lại để có thể ngoài tích hợp một quả bom chìm hạt nhân mà còn có thể tích hợp một ngư lôi chống ngầm tự dẫn. Để đạt được độ chính xác cần thiết, tên lửa đẩy RAT-C được thiết kế lại với các cánh bên lớn hơn. Cuối cùng RAT-C đã đạt độ tin cậy và độ chính xác cùng với tầm bắn theo yêu cầu. Trước khi RAT-C được đưa vào hoạt động năm 1960 trên tàu USS Norfolk, tên của nó được đổi thành ASROC.[6][7] ASROC được triển khai vào năm 1961 và cuối cùng đã biến phần lớn các tàu chiến mặt nước của Hải quân Hoa Kỳ thành có khả năng mang vũ khí hạt nhân.
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Nguyên mẫu của Hệ thống tên lửa chống ngầm ASROC đầu tiên sử dụng bệ phóng MK-112 "Matchbox" được phát triển vào những năm 1950 và bắt đầu triển khai vào những năm 1960. Hệ thống này đã bị loại bỏ vào những năm 1990 và được thay thế bằng phiên bản phóng từ giếng phóng thẳng đứng RUM-139.[4]
Sau khi một tàu nổi, máy bay tuần tra hoặc trực thăng chống ngầm phát hiện tàu ngầm của đối phương bằng cách sử dụng sonar hoặc các cảm biến khác, nó có thể chuyển tiếp vị trí của tàu ngầm đến một tàu được trang bị tên lửa chống ngầm ASROC để tấn công. Sau đó, tàu tấn công sẽ bắn một tên lửa ASROC mang theo ngư lôi tự dẫn bằng đầu dò thủy âm[8] hoặc một quả bom chìm mang đầu đạn hạt nhân W44 đi theo quỹ đạo quán tính đến mục tiêu. Tại điểm định trước của quỹ đạo tên lửa, ngư lôi hoặc bom chìm hạt nhân sẽ tách khỏi tên lửa và rơi xuống nước bằng dù ở tốc độ thấp và tạo ra tiếng ồn tối thiểu có thể phát hiện được khi chạm vào mặt nước. Sau khi đã ở dưới nước, ngư lôi sẽ được kích hoạt và sử dụng hệ thống định vị thủy âm chủ động hoặc bị động của nó để tự dẫn hướng tới mục tiêu.
Bom chìm mang đầu đạn hạt nhân W44
[sửa | sửa mã nguồn]Bom chìm mang đầu đạn hạt nhân W44 bắt đầu được đưa vào trang bị năm 1961,[9] nhưng nó chưa từng được sử dụng quá một hoặc lần thử nghiệm hạt nhân trước khi Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân một phần được ký kết hạn chế các vụ thử hạt nhân dưới nước có hiệu lực. Tổng cộng có 575 quả bom loại này được sản xuất. Đầu đạn W44 nặng 77 kg (170 lb) với đường kính 35 cm (13,75 in) và dài 64 cm (25,3 in). Sau khi tách khỏi tên lửa, W44 sẽ chìm nhanh xuống độ sâu được định trước, tại đó đầu đạn 10 kiloton phát nổ. Phiên bản ASROC mang đầu đạn hạt nhân chưa bao giờ được sử dụng trong chiến tranh. Tên lửa ASROC mang đầu đạn W44 đã bị loại biên vào năm 1989, cùng với tất cả các loại bom chìm hạt nhân khác.[4]
Các nước trang bị
[sửa | sửa mã nguồn]Các nước từng sử dụng tên lửa chống ngầm ASROC
[sửa | sửa mã nguồn]- Hải quân Brasil
- Hải quân Hoàng gia Canada
- - only on destroyer lớp Restigouches (after IRE/DELEX modification.)
- Hải quân Đức
- - only on destroyer lớp Lütjenss
- Hải quân Hy Lạp
- Hải quân Ý
- - only on Vittorio Veneto using a Mk 10 GMLS launcher (depot for 40 missiles, between RIM-2 Terrier / RIM-67A SM-1ER and ASROC)
- Hải quân México
- Hải quân Đại Hàn Dân Quốc
- Hải quân Pakistan
- Hải quân Tây Ban Nha
- Hải quân Thái Lan
- Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ
- Hải quân Hoa Kỳ
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c Jolie, E.W. (15 tháng 9 năm 1978). “A Brief History of US Navy Torpedo Development: ASROC Missile”. Maritime. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2013.
- ^ a b c d e f Thomas, Vincent C. The Almanac of Seapower 1987, Navy League of the United States (1987) ISBN 0-9610724-8-2 pp.190–91
- ^ "Navy Homing Torpedoes Fights Subs." Popular Mechanics, April 1958, p. 108.
- ^ Bill Gunston Rocket & Missiles, Salamander Books Ltd 1979, ISSB 0-517-26870-1
- ^ Friedman, Norman (2004). US Destroyers: An Illustrated Design History . Annapolis: Naval Institute Press. tr. 280–287. ISBN 1-55750-442-3.
- ^ "Asroc" in The New Encyclopædia Britannica. Chicago: Encyclopædia Britannica Inc., 15th edn., 1992, Vol. 1, p. 639.
- ^ Polmar, Norman (1983). “Tactical Nuclear Weapons”. Proceedings. United States Naval Institute. 109 (7): 125.
Link ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về RUR-5 ASROC. |
- https://fas.org/man/dod-101/sys/missile/vla.htm Lưu trữ 28 tháng 4 2015 tại Wayback Machine
- http://www.gyrodynehelicopters.com/asroc.htm
- http://designation-systems.net/dusrm/r-5.html
- DiGiulian, Tony Navweaps.com ASROC page
- Allbombs.html list of all US nuclear warheads at nuclearweaponarchive.org
- Anti-submarine missiles of the United States
- Anti-submarine weapons
- Cold War nuclear missiles of the United States
- Ballistic missiles of the United States
- Cold War anti-submarine weapons of the United States
- Naval guided missile launch systems of the United States
- Naval weapons of the United States
- Honeywell
- Military equipment introduced in the 1960s