Biên giới Ba Lan–Litva

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Biên giới hiện tại giữa Cộng hòa LitvaCộng hòa Ba Lan. Nó vẫn không thay đổi kể từ Thế chiến II.

Biên giới Litva-Ba Lan tồn tại kể từ khi tái lập nền độc lập của Litva vào ngày 11 tháng 3 năm 1990. Cho đến thời điểm đó, biên giới giống hệt với biên giới giữa Ba Lan và Litva SSR của Liên Xô. Chiều dài của biên giới là 104 kilômét (65 mi).[1][2] Nó chạy từ Litva-Ba Lan-Nga ba điểm đông nam đến ba điểm Belarus-Litva-Ba Lan.

Đây là biên giới đất liền duy nhất mà EU - và các quốc gia vùng Baltic của NATO chia sẻ với một quốc gia không phải là thành viên của Khối thịnh vượng chung của các quốc gia độc lập.[3]

Đối với các nhà hoạch định quân sự của NATO, khu vực biên giới được gọi là khoảng trống Suwalki (được đặt theo tên thị trấn Suwałki gần đó), bởi vì nó đại diện cho một mảnh đất hẹp bằng phẳng khó bảo vệ, một khoảng trống, nằm giữa Belarus và Nga Kaliningrad exiances và điều đó kết nối các quốc gia Baltic thành viên NATO với Ba Lan và phần còn lại của NATO.[4] Quan điểm này đã được phản ánh trong một cuộc tập trận năm 2017 của NATO, lần đầu tiên tập trung vào việc bảo vệ khoảng cách từ một cuộc tấn công có thể của Nga.[5]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Biên giới Litva hiện tại của Ba Lan đã tồn tại kể từ khi tái lập nền độc lập của Litva vào ngày 11 tháng 3 năm 1990.[6] Biên giới đó được thiết lập sau hậu quả của Thế chiến II. Cho đến lúc đó, biên giới giống với biên giới giữa Ba Lan và Litva SSR của Liên Xô.[7][8] Một biên giới khác tồn tại giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và Litva trong giai đoạn 1918-19. Sau cuộc xung đột biên giới Litva của Ba Lan, từ năm 1922 trở đi, nó ổn định và có chiều dài 521   km.[9][10] Trong các phân vùng của thời đại Ba Lan, đã có biên giới giữa Quốc hội Ba Lan (Augustów Voivodeship) và vùng đất Litva của Đế quốc Nga (Thủ đô Kovno và Thủ đô Vilna). Từ Liên minh Lublin (1569) đến các phân vùng, không có biên giới Ba Lan-Litva, vì cả hai quốc gia là một phần của một thực thể liên hiệp duy nhất, Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva.[11] Trong thời trung cổ, Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Lietuva đã chia sẻ một biên giới khác.[12]

Litva và Ba Lan đã gia nhập Khu vực Schengen vào năm 2007. Điều này có nghĩa là tất cả các kiểm tra hộ chiếu đã được gỡ bỏ dọc biên giới vào tháng 12 năm 2007.

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Cửa khẩu biên giới cũ[sửa | sửa mã nguồn]

Biên giới cũ qua biên giới Ogrodniki Kiếm Lazdijai

Trong giai đoạn 1991-2007, có ba tuyến đường bộ và một tuyến đường sắt biên giới giữa Ba Lan và Litva.[13]

Vào ngày 1 tháng 5 năm 2004, khi cả Ba Lan và Litva gia nhập Liên minh Châu Âu, biên giới này đã trở thành biên giới nội bộ của Liên minh Châu Âu.[14] Vào ngày 21 tháng 12 năm 2007, Ba Lan và Litva đã tham gia Thỏa thuận Schengen.[15] Sau này, việc vượt biên trở nên dễ dàng hơn, vì biên giới nội bộ của EU mở cửa cho tất cả giao thông mà không cần kiểm soát. Tuy nhiên, vẫn có các biện pháp kiểm soát của cảnh sát và cảnh sát thỉnh thoảng chống buôn lậu hàng hóa bị hạn chế, tuy nhiên chỉ ảnh hưởng đến khoảng 1% khách du lịch.[16][17][18]

Đường bộ

  • Budzisko - Kalvarija
  • Ogrodniki - Lazdijai
  • Berżniki - Kapčiamiestis

Đường sắt

  • Trakiszki - Šeštokai

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Warunki Naturalne I Ochrona Środowiska” [Environment and Environmental Protection]. Mały Rocznik Statystyczny Polski 2013 [Concise Statistical Yearbook of Poland 2013] (bằng tiếng Ba Lan và Anh). Główny Urząd Statystyczny. 2013. tr. 26. ISSN 1640-3630.
  2. ^ (tiếng Ba Lan)“Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2015.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết). Page gives Polish PWN Encyklopedia as reference.
  3. ^ Vladimir Shlapentokh (ngày 1 tháng 1 năm 2001). The Legacy of History in Russia and the New States of Eurasia. M.E. Sharpe. tr. 100. ISBN 978-0-7656-1398-1.
  4. ^ Bearak, Max (ngày 20 tháng 6 năm 2016). “This tiny stretch of countryside is all that separates Baltic states from Russian envelopment”. The Washington Post. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2016.
  5. ^ Sytas, Andrius (ngày 18 tháng 6 năm 2017). “NATO war game defends Baltic weak spot for first time”. Reuters. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2017.
  6. ^ “LR AT AKTO Dėl Lietuvos nepriklausomos valstybės atstatymo signatarai”. Lietuvos Respublikos Seimas.
  7. ^ Peter Andreas; Timothy Snyder (1 tháng 1 năm 2000). The Wall Around the West: State Borders and Immigration Controls in North America and Europe. Rowman & Littlefield. tr. 187. ISBN 978-0-7425-0178-2.
  8. ^ Yaël Ronen (19 tháng 5 năm 2011). Transition from Illegal Regimes under International Law. Cambridge University Press. tr. 138. ISBN 978-1-139-49617-9.
  9. ^ Polska w cyfrach[liên kết hỏng] [in:] E. Romer Atlas Polski współczesnej, 1928[liên kết hỏng].
  10. ^ Michael Brecher (1997). A Study of Crisis. University of Michigan Press. tr. 252–255. ISBN 0-472-10806-9.
  11. ^ Halina Lerski (ngày 19 tháng 1 năm 1996). Historical Dictionary of Poland, 966–1945. ABC-CLIO. tr. 308. ISBN 978-0-313-03456-5.
  12. ^ Stephen R. Burant and Voytek Zubek, Eastern Europe's Old Memories and New Realities: Resurrecting the Polish-lithuanian Union, East European Politics and Societies 1993; 7; 370, online Lưu trữ 2020-05-24 tại Wayback Machine
  13. ^ Kancelaria Sejmu RP. “Internetowy System Aktów Prawnych”. sejm.gov.pl.
  14. ^ Stephen Kabera Karanja (tháng 1 năm 2008). Transparency and Proportionality in the Schengen Information System and Border Control Co-Operation. Martinus Nijhoff Publishers. tr. 39. ISBN 90-04-16223-2.
  15. ^ “Europe's border-free zone expands”. BBC News. ngày 27 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  16. ^ “Nowe polsko-litewskie drogi po wejściu do Schengen”. DELFI. ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  17. ^ “Wspólne patrole na polsko-litewskiej granicy:: społeczeństwo”. Kresy.pl. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2019.
  18. ^ “Przemyt papierosów przy polsko – litewskiej granicy [ZDJĘCIA]”. bialystok.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]